Trang chủ Ngày này năm xưa Trận Saipan – nỗ lực tuyệt vọng của những binh sĩ cảm...

Trận Saipan – nỗ lực tuyệt vọng của những binh sĩ cảm tử Nhật

Ảnh: Những binh sĩ đọc mã Navajo ở Saipan.

Saipan là trận xung phong banzai lớn nhất của Nhật tại chiến trường Thái Bình Dương. Gần như toàn bộ lính Nhật chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Tuy nhiên đòn cảm tử cũng không lật ngược được tình thế trước một đối phương Hoa Kỳ có tiềm lực rất mạnh.

Ngày 15/6/1944, thủy quân lục chiến Mỹ tấn công dữ dội vào các bờ biển tại hòn đảo Saipan có tầm quan trọng chiến lược do Nhật kiểm soát. Mục đích của Mỹ là có được căn cứ không quân trọng yếu từ đó Mỹ sử dụng máy bay ném bom mới B-29 tấn công thẳng vào lãnh thổ Nhật. Khi quân Mỹ “lùa” được quân Nhật ở khu vực phía bắc của đảo, các binh sĩ Nhật đã mở một cuộc phản công vỗ mặt ồ ạt nhưng không xoay chuyển được tình thế. Và ngày 9/7, lá cờ Mỹ tung bay trên hòn đảo Saipan.

Mùa Xuân năm 1944, quân Mỹ tham gia vào chiến dịch Thái Bình Dương đã chiếm các hòn đảo từ tay Nhật ở khu vực giữa Thái Bình Dương dọc theo hành lang tiến tới Nhật. Một đội tàu Mỹ gồm 535 chiếc chở 127.000 lính, gồm 77.000 lính thủy quân lục chiến, chiếm quần đảo Marshall. Bộ tư lệnh Mỹ sau đó tính việc chiếm quần đảo Mariana – tiền đồn quan trọng trong hệ thống phòng thủ của đế quốc Nhật.

Lúc quân Mỹ tiến công đảo Saipan, 800 lính thủy đánh bộ Mỹ da màu dỡ lương thực và đạn dược khỏi các tàu xe đổ bộ và cung cấp cho lực lượng Mỹ trên bờ biển. Họ là những lính thủy quân lục chiến Mỹ gốc Phi đầu tiên tham chiến trong Thế chiến 2.

Bộ tư lệnh Mỹ quyết định cuộc đổ bộ đầu tiên lên quần đảo Mariana sẽ được thực hiện tại đảo Saipan – đảo lớn nhất trong quần đảo này.

Tướng thủy quân lục chiến Holland Smith được trao một bản kế hoạch tác chiến và nhận lệnh phải chiếm được hòn đảo này trong 3 ngày. Sau khi chiếm được đảo Saipan, theo kế hoạch, quân Mỹ sẽ cơ động chiếm nốt đảo Guam và Tinian.

Các khu trục hạm và máy bay Mỹ đã dọn đường cho thủy quân lục chiến bằng cách tấn công cấp tập vào vị trí Nhật nhưng đã không thể dập tắt các hỏa điểm bố trí dọc theo các vách đá ở bờ biển. Hậu quả là thủy quân lục chiến Mỹ phải tiến quân dưới hỏa lực xối xả của Nhật.

Bất chấp Nhật kháng cự dữ dội, 8.000 lính thủy quân lục chiến vẫn tiến lên được bờ vào sáng 15/6. Cuối ngày, khoảng 20.000 lính Mỹ đã thiết lập được một “đầu cầu”. Tuy nhiên, quân Mỹ phải trả giá bằng khoảng 2.000 lính bị thương vong trong ngày.

Lúc cao trào của cuộc chiến, tướng Smith ra lệnh cho một binh đoàn vượt qua thung lũng rộng và trống trải để tiến đánh các vị trí của quân Nhật.

Cuối tháng 6, sau những cuộc giao tranh tại rừng núi nhiệt đới, thủy quân lục chiến mới giành kiểm soát ngọn núi Tapotchau. Quân Nhật buộc phải rút lên phía bắc, tạo bước ngoặt trong trận Saipan.

Nhiều dân thường Nhật thiệt mạng. Quân Mỹ không phải lúc nào cũng phân biệt lính với dân thường khi họ truy kích trong hang hay nghe thấy các tiếng chuyển động trong rừng rậm vì quân Nhật thường dùng dân thường làm mồi nhử phục kích lính Mỹ.

Đầu tháng 7/1944, các lực lượng của tướng Yoshitsugu Saito, tư lệnh Nhật trên đảo Saipan, triệt thoái về khu vực phía bắc hòn đảo. Tại đó quân Nhật bị kẹp giữa hỏa lực của Mỹ từ trên bộ, trên biển và cả trên không.

Tuy nhiên trước khi chết, Saito lệnh cho tàn quân mở cuộc tấn công tổng lực cuối cùng và bất ngờ vì danh dự của Nhật hoàng. Đa phần lính Nhật chiến đấu tới chết. Tuy nhiên đòn vẫn không lật ngược được tình thế. Đến ngày 9/7, sau các đợt truy quét cuối cùng, quân Mỹ đã phất cờ chiến thắng trên đảo Saipan.

Trận đánh tàn bạo trong 3 tuần khiến 3.000 lính Mỹ tử trận, và hơn 13.000 lính Mỹ bị thương. Theo một số ước tính, quân Nhật mất ít nhất 27.000 lính.

Một nghiên cứu kết luận: “Tình trạng chưa hoàn thành của hệ thống phòng thủ Nhật [trên đảo Saipan] là một nhân tố quan trọng tạo nên chiến thắng quyết định của Mỹ. Các tàu ngầm tầm xa của hải quân Mỹ đã cản trở thành công nhiều tàu bè của Nhật Bản, làm giảm việc vận chuyển xi măng và các vật liệu xây dựng lên đảo để củng cố vững chắc công sự ở Saipan”.

Việc Saipan thất thủ đã gây choáng váng ở Tokyo. Lãnh đạo Nhật hiểu rằng họ sắp lãnh các đòn sấm sét từ máy bay ném bom Mỹ.

Tướng Hideki Tojo – Thủ tướng Nhật, trước đó tuyên bố rằng Mỹ sẽ không bao giờ chiếm được Saipan. Trước tình hình này, ông ta phải từ chức vào thời điểm một tuần sau khi Mỹ chiếm được hòn đảo Saipan.

Sau trận chiến, đảo Saipan trở thành một căn cứ quan trọng cho các chiến dịch khác, và cuộc tấn công Philippines sau này (tháng 10/1944), quần đảo Ryukyu cũng như chính Nhật Bản.

Đại úy Nhật Sakeo Oba không chịu đầu hàng, trốn trong những ngọn núi cùng 46 binh lính khác, cho đến khi phải đầu hàng ngày 1/12/1945, 3 tháng sau khi toàn bộ Đế quốc Nhật ký văn kiện đầu hàng quân Đồng minh.