Trong năm 1426, Bình Định vương Lê Lợi đã tiến thêm một bước trên con đường giải phóng đất nước bằng việc chia quân bắc tiến, phát động nhân dân cùng góp sức tiến công giặc ở khắp nơi. Để đối phó lại, Minh triều bên cạnh việc tiến hành mị dân cũng có những động thái quân sự cứng rắn. Chứng kiến sự bất lực của quan quân nước Minh trước sức tấn công của nghĩa quân Lam Sơn, vua Minh Tuyên Tông quyết định thay tướng và điều sang thêm những đạo quân tiếp viện lớn.
Về tổ chức, tháng 5.1426, Thành Sơn hầu Vương Thông được phong làm “Chinh Di tướng quân”, sang thay Trần Trí đảm nhiệm chức Tổng binh, nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân Minh trên lãnh thổ nước ta. Đô đốc Mã Anh được cử làm tham tướng. Những tướng lĩnh cũ là Trần Trí, Phương Chính, Thái Phúc… phần nhiều đều bị vua Minh giáng chiếu hạch tội và trách mắng thậm tệ, sung làm Sự quan – chức quan dành cho những kẻ đang có tội nhưng tạm tha, cho tại chức để lập công chuộc tội.
Về thành phần lực lượng, 5 vạn quân Minh được điều động theo Tổng binh Vương Thông để sang cứu viện cho bọn Trần Trí. Để phối hợp với Vương Thông, vua Minh Tuyên Tông còn lệnh cho 1 vạn quân Minh dưới quyền tướng Vương An Lão từ Vân Nam tiến sang. Trước kia bọn tướng Minh chia ngụy binh các xứ đi làm đồn điền để tích trữ lương thực. Nay thế bức bách, Trần Trí cho gom tất cả quân đi làm đồn điền lại, kể cũng hàng vạn, tất cả đều tập trung về thành Đông Quan. Trần Trí còn ráo riết bắt lính ngụy tại một số vùng quân Minh còn đang chiếm đóng, sắp xếp lẫn với bọn lính người Minh để quản thúc và bắt phải chiến đấu cho chúng.
Trước đây, Trần Trí và bọn Lý An, Phương Chính bị vây bức tại thành Nghệ An. Trần Trí phải khốn đốn lắm mới tháo chạy được về bắc, để Lý An, Phương Chính lại tử thủ thành Nghệ An. Bình Định vương Lê Lợi không đánh thành mà dồn quân bao vây. Đến nay Đông Quan nguy cấp, Trí cùng quẫn sai người giỏi võ nghệ đem mật thư lẻn vào được thành Nghệ An, lệnh cho Lý An, Phương Chính “bỏ thành Nghệ An về để cứu đất căn bản”. Mọi cố gắng có giặc Minh từ tướng đến vua là có được số quân đông để bổ sung cho số bị hao hụt trong các trận đánh trước đó nhằm đối phó với sự lớn mạnh vượt bậc của nghĩa quân Lam Sơn.
Thế nhưng một lần nữa quân Minh đã không có được lợi thế mà chúng muốn. Hiệu lệnh của Bình Định vương truyền đến các xứ, trai tráng nước Việt nô nức tình nguyện sung vào đội quân chính nghĩa để diệt giặc. Chẳng những thế, dân chúng còn tự trang bị khí giới, lương thực mà cung cấp cho nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra, tại các địa phương ở vùng Kinh lộ mặc dù quân Lam Sơn chưa chiếm được nhưng đã cài người tập họp lực lượng bí mật chờ sẵn trước. Đến khi quân ta đi tuần ra bắc, những đạo quân mật phục này nhanh chóng họp vào hàng ngũ. Bởi thế mà từ chỗ mỗi cánh quân chỉ có vài ngàn quân, quân Lam Sơn bắc tiến nhanh chóng tập họp được lực lượng mỗi cánh quân đông hàng vạn người.
Tổng lực lượng quân Lam Sơn từ bắc chí nam đến mùa thu năm 1426 đã đông trên dưới 20 vạn quân, và vẫn trên đà phát triển về cả quân số lẫn khí giới, kinh nghiệm chiến đấu. Vì là đội quân hiệp nghĩa cứu dân, nghĩa quân Lam Sơn hầu như không cần tốn hao tiền bạc mộ quân, không cần đem chức tước ra cầu hiền mà người người tự đến gia nhập với tinh thần không vụ lợi. Quân Minh thực sự đã phải đối đầu với sức mạnh tổng hợp của cả một dân tộc đang trỗi dậy khẳng định lại sự tự cường của mình.
Cuối tháng 9.1426, Lý Triện dẫn quân tiến gần Đông Quan. Trần Trí sợ quân ta có dịp hiệu triệu toàn dân như những gì đã diễn ra tại Nghệ An, bất đắc dĩ phải thúc quân xuất thành hòng đánh phủ đầu quân ta. Lý Triện cùng các tướng Trịnh Khả, Đỗ Bí đặt quân mai phục tại cầu Ninh Kiều, thuộc Ứng Thiên (Ứng Hòa, Hà Nội ngày nay) đón đánh. Quân ta mưu trí chờ lúc quân Minh đang qua cầu thì đổ ra đánh. Cầu hẹp, quân giặc không tiến được, lớp rơi xuống sông chết, lớp bị giết. Trần Trí bại trận phải chạy ngược về thành Đông Quan cố thủ. Trận này quân Minh có 2.000 tên thiệt mạng. Kế hoạch đánh phủ đầu của Trần Trí thất bại thảm bại, quân ta thuận đà tiến ra, khí thế càng dâng cao.
Một ngày đầu tháng 10.1426, khi các đạo quân Lam Sơn đang đi tuần quanh Đông Đô thì tại thành Nghệ An, tướng Minh là Phương Chính cùng Lý An thình lình mở cổng thành tung hàng vạn quân đánh mạnh phá vòng vây để mở đường thoát ra biển. Trong thành Nghệ An chỉ để lại Thái Phúc cùng một ít quân trấn giữ. Quân Lam Sơn vốn đã xếp đặt sẵn phục binh các nẻo, chỉ đợi giặc kéo ra là đón đánh. Bình Định vương Lê Lợi liền tức khắc dồn quân bao vây đánh diệt quân giặc. Tuy nhiên quân Minh đánh liều chết, lại có thuyền lớn nên phá được vòng vây.
Bình Định vương Lê Lợi một mặt để các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Lê Thận, Phạm Bôi, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng ở lại tiếp tục cầm quân vây chặt Thái Phúc tại thành Nghệ An, còn ngài thì đích thân đốc suất quân thủy bộ rầm rộ truy kích theo Phương Chính và Lý An, buộc giặc phải trả giá đắt trên mỗi bước đường tháo chạy. Đến Thanh Hóa, thuyền quân Minh sau phen nguy khốn rốt cuộc thoát được ra biển, nhắm theo hướng bắc mà chèo nhanh, định tiến vào sông Đáy ngược dòng về thành Đông Quan. Bấy giờ quân ta có ít thuyền lớn, không thể đuổi theo được bọn Phương Chính. Nhưng ở các xứ ven biển từ Thanh Hóa trở ra, quân Lam Sơn đã làm chủ phần lớn. Bởi thế, hạm đội quân Minh dưới quyền Phương Chính, Lý An không có đường lên bờ, phải đi lòng vòng ngoài biển.
Bình Định vương Lê Lợi sau khi để xổng hàng vạn quân Minh ở thành Nghệ An, cho rằng mặt trận chính đã chuyển ra bắc, bèn dời dinh đóng tại Lỗi Giang xứ Thanh Hóa, chia quân đi tuần quanh thành Tây Đô. Tướng Minh là La Thông ở trong thành Tây Đô cùng quẫn vẫn nhất quyết đóng chặt cửa thành không ra hàng. Lê Lợi ủy lạo tướng sĩ, thăm hỏi thân thuộc ở Thanh Hóa. Kỳ lão và nhân dân trong vùng đều tình nguyện sung quân diệt giặc. Bình Định vương kén người khỏe mạnh, tùy tài lược cao thấp mà xếp vào đội ngũ. Ai nấy đều vui vẻ, nóng lòng chờ dịp lập công.
Cuối tháng 10.1426, hai đạo viện binh giặc đã rầm rộ kéo sang. Phía đông bắc, Vương Thông cũng Mã Anh dẫn 5 vạn quân từ Quảng Tây tiến theo đường Lạng Sơn xuống Đông Quan. Ở hướng tây bắc, Vương An Lão dẫn 1 vạn quân Vân Nam theo đường từ Đà Giang (Lai Châu ngày nay) tiến xuống đồng bằng.Tương quan lực lượng của hai bên bấy giờ có sự khác biệt lớn tại các mặt trận. Nếu như từ Thanh Hóa trở vào nam, quân Lam Sơn vẫn nắm ưu thế tuyệt đối cả về lực lượng lẫn thế trận thì ở mặt trận từ đồng bằng sông Hồng trở ra các vùng trung du và biên giới phía bắc, quân Minh đã có lực lượng đông mạnh hơn quân ta nhờ vào nỗ lực gom quân của Trần Trí và sự tăng viện từ nước Minh sang.
(còn nữa)
Quốc Huy/Một Thế Giới