Bối cảnh: Đế quốc Anh và chính phủ bù nhìn của Shah Shuja
Vào thế kỷ 19, Ấn Độ là thuộc địa quan trọng nhất của đế quốc Anh với lưu lượng hàng hóa khổng lồ. Bảo vệ Ấn Độ, vì vậy, là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Anh. Afghanistan, nằm giữa Ấn Độ và Nga, cũng trở thành một trong những khu vực trọng yếu mang tính chiến lược cho Đế quốc Anh và công ty East India.
Thời gian đầu mối quan hệ giữa quân Anh và chính quyền Afghanistan của Emir Dost Mohammed Khan khá ôn hòa. Tuy nhiên, khi quân Anh từ chối giúp đỡ Dost Mohammed giành lại Peshawar – vùng đấy bị người Sikhs chiếm vào năm 1834 – vị quốc Vương này dường như có ý định tìm kiếm sự giúp đỡ từ Nga hoàng. Lord Auckland, Tổng Chỉ Huy tại Ấn Độ khi đó, đã kết luận chính quyền này cần phải bị lật đổ do có tư tưởng lệch với quyền lợi của Anh trong khu vực. Từ đó, quân Anh đi đến quyết định xâm lược Afghanistan và dựng lên một chính quyền thay thế thân Anh. Người được chọn để tiếp quản là Shah Shuja, vị quốc Vương từng trị vì Durrani Empire từ năm 1803-1809.
Mùa xuân 1839, dưới sự lãnh đạo của Tướng Sir John Keane, 20.000 lính người Anh và Ấn Độ đã tiến hành xâm lược Afghanistan. Dù đường tiến quân khá khó đi, cùng với một số cuộc đánh trả của các bộ lạc bản địa, đội quân xâm lược nhanh chóng tiến tới thủ đô Kabul mà không gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ nào. Emir Shah Shuja chính thức tiếp quản chính quyền Afghanistan vào tháng 8 năm đó.
Trong kế hoạch của Lord Auckland, Shah Shuja sẽ nhanh chóng khôi phục quyềnlực, kiểm soát đất nước, đồng thời thực hiện một chiến lược ngoại giao thân Anh và bài Nga. Quân Anh sẽ sớm được rút khỏi vùng đất này. Nhưng tất cả chỉ là trong ảo vọng của Lord Auckland. Shah Shuja không hề được lòng người dân, và thiếu trầm trọng khả năng lãnh đạo đất nước, nhất là một đất nước bị chia cắt bởi nhiều bộ lạc nhỏ lẻ.
Quân Anh tại Kabul 1841
Sau chiến thắng nhanh chóng, Anh vẫn giữ lại một số đội quân đóng tại Kabul, Kandahar, Ghazni, Kalati Ghilzai, Charikar, và Jalalabad, đồng thời thiết lập ảnh hưởng tại một số khu vực thường xuyên có tranh chấp. Để đảm bảo kết nối giữa các khu quân sự, Anh buộc phải dùng tiền để mua chuộc các thủ lĩnh bộ lạc có lực lượng lớn trong nước nhằm đảm bảo giao thông liên tục, ứng cứu hàng hóa và quân đội kịp thời. Tuy nhiên, tới cuối năm 1841, chính quyền đế quốc tại Ấn Độ yêu cầu William Hay Macnaghten, Đại sứ tại Afghanistan nhưng thời điểm đó gần như là người chính giật dây Shah Shuja và điều hành chính sách quân sự của Anh ở đây – phải cắt giảm chi phí. Mong muốn làm hài lòng cấp trên để được thăng chức, Macnaghten không ngần ngại cắt tiền viện trợ cho các nhóm bản địa. Một trong những quyết định sai lầm nhất là cắt một nửa số viện trợ 8,000 bảng Anh cho nhóm bản địa tại phía đông Ghilzais – khu vực bao gồm cả cửa ngõ Khyber Pass, con đường trực tiếp nhất nối Ấn Độ và Kabul.
Vậy là, năm 1841, khi mùa đông đang tới gần, quân Anh tại Kabul gần như trong thế bị cô lập khi đường nối với Ấn Độ không còn được thủ lĩnh các bộ lạc bảo lãnh. Mặt khác, Macnaghten được bổ nhiệm làm Thống đốc tại Bombay. Sir Alexander Burnes đã đến Kabul để chuẩn bị thay thế Macnaghten.
Tại thời điểm này, quân Anh chỉ còn khoảng 4.500 lính tại Kabul (bao gồm cả người Anh và người Ấn), nhưng kèm theo tới tận 12.000 người – bao gồm cả vợ, con, gia đình, rất nhiều người hầu của lính Anh. Thay vì sử dụng các khu thành lũy có sẵn, Anh xây dựng một khu quân sự bên rìa Kabul. Tuy nhiên, khu quân sự này lại được xây dựng khá khó hiểu: vị trí ở vùng trũng, quá lớn so với số quân và có rất nhiều điểm ra vào khiến nó trở nên cực kỳ khó phòng ngự trước tấn công từ ngoài.
Cần phải nói thêm, tổng chỉ huy quân Anh tại Afghanistan lúc này là Tướng William George Keith Elphinstone. Bệnh gout lâu năm khiến Elphinstone trở nên rệu rạo và chậm chạp, không thể tham gia điều hành quân đội một cách xông xáo mà phải dựa nhiều vào thông tin và hoạt động của cấp dưới.
Bạo loạn mùa đông 1841
Chính quyền yếu kém của Shah Shuja ngày càng khiến người dân bất mãn. Kèm theo đó, sự hiện diện của lính ngoại quốc trên lãnh thổ khiến người dân Afghanistan tạo ra mối xung đột sâu sắc giữa bản địa và người Anh. Từ năm 1840, các cuộc nổi dậy của người Pushtuns đã bắt đầu xuất hiện và lan dần tới các khu vực khác trên toàn lãnh thổ.
Rạng sáng 2/11/1841, một cuộc nổi loạn xảy ra tại Phủ Thống Sứ Anh (British Residency), nơi ở của Sir Alexander Burnes, một chính trị gia người Scotland (không có nhiệm vụ rõ ràng tại Afghanistan). Ban đầu, Burnes thậm chí không ra lệnh bắn trả, vì cho rằng mình có thể thuyết phục những người Afghanistan này từ bỏ ý định cướp phá. Ông vẫn cho người báo với khu quân sự rằng mình đang bị bao vây và cần quân chi viện, phòng trường hợp xấu xảy ra. Cuộc nổi loạn dần trở nên bạo lực, với kết quả Sir Alexander Burnes cùng thiếu tá William Broadfoot bị ám sát.
Hôm sau, cuộc nổi loạn nhanh chóng lan rộng và nhiều người tham gia hơn nữa. Trong khi nhiều sĩ quan đề nghị chuyển tới pháo đài Bala Hissar ở phía nam Kabul, nơi có vị thế phòng ngự tốt hơn. Tuy nhiên, Elphinstone không đưa ra quyết định nào. Vậy là hơn 12,000 người co cụm tại khu quân sự mong manh. Chỉ trong vài ngày, những kẻ nổi loạn đã nhanh chóng phá hủy các khu quân nhu tiếp tế thức ăn, thuốc men, và các vật dụng khác vào khu quân đội.[1]
Tin dữ tới càng lúc càng nhiều. Tới ngày 13/11, phần lớn số quân của Shah Shuja đã bị loại bỏ. Hai ngày sau, hai sỹ quan Anh và một lính Ấn Độ chạy được tới khu quân sự và cho biết họ là những người sống sót duy nhất của một trung đoàn 600 người tại Kohistan. Trong khi đó, một đơn vị 150 người tại Shekabad đã bị giết chỉ còn lại một người. Quân đội Anh tại khu quân sự vùng vẫy trong tuyệt vọng để bảo vệ khu thành trì trong tình trạng các nguồn tiếp tế dần cạn kiệt. Điều đáng nói là chỉ huy chỉ đưa ra các hoạt động đánh lẻ tẻ và co cụm, khiến cho quân nổi loạn càng cảm thấy mình mạnh hơn và tăng tốc tấn công.
Và điều nguy hiểm nhất cuối cùng cũng tới, ngày 22/11, quân đội Anh nhận được tin Akbar Khan, con trai cả của Dost Mohammed đã tới Kabul để lãnh đạo của nổi loạn, hay bây giờ có thể đã mang hình thái một cuộc cách mạng đảo chính.
Ngày 11/12, Macnaghton và Elphinstone bắt đầu chuẩn bị đàm phán với Akbar Khan điều kiện đầu hàng và rút quân. Tuyết bắt đầu rơi vào ngày 18/12, và đây là một năm tuyết lớn nhất trong nhiều năm của Afghanistan.
Cuộc tháo chạy gấp gáp và cái kết thảm khốc
Ngày 22/12, trước tình cảnh khủng hoảng của quân Anh tại Kabul, Akbar Khan gửi một bức thư kèm lời đề nghị hào phóng đáng ngờ tới Macnaghten: Shah Shujah sẽ được tại ngôi, Akbar Khan là tổng quân sư; quân Anh có thể hoãn rút lui cho tới mùa xuân năm sau; thủ lĩnh đầu sỏ của cuộc nổi loạn, Aminulla Khan, sẽ được giao cho quân Anh. Trong khi Elphinstone và các sĩ quan bày tỏ quan ngại về âm mưu trong lời đề nghị hào phóng kỳ lại này, Macnaghten quyết định nhận lời Akbar Khan với đầy tự tin: “Hãy để đó cho tôi. Tôi hiểu những thứ này hơn bất kỳ người nào trong số các anh.”
Không kỳ lạ lắm khi ngày hôm sau trở thành ngày giỗ của Macnaghten. Ông ta đi gặp Akbar Khan bên cạnh sông Kabul mà chỉ mang theo ba sỹ quan và 10 kỵ binh người Ấn Độ. Akbar Khan đã giết chết Macnaghton và bắt ba sỹ quan đi cùng vào trong ngục.
Bằng một điều kỳ diệu nào đó, Elphinstone không hành động gì khi Macnaghten bị giết, tiếp tục đàm phán với Akbar Khan và các thủ lĩnh bản địa về điều khoản rút lui. Vào lễ đón năm mới 1842, khi tuyết đang rơi dầy đặc Kabul, thỏa thuận đã đạt được: quân Anh sẽ trả cho các thủ lĩnh Afghanistan tổng cộng 14,5 lakhs rupees để đổi lấy sự an toàn tới Peshawar; quân Anh chỉ được giữ lại vũ khí cá nhân, sáu khẩu pháo, và ba khẩu súng lừa kéo, toàn bộ số vũ khí hạng nặng phải để lại Kabul; sáu sỹ quan bị giữ lại làm con tin.
Ngày 6/1/1842, hơn 16.500 lính và người thuộc quân đội Anh bắt đầu cuộc rút quân khỏi Kabul, hướng về Jelalabad trong trời tuyết lạnh dưới 0 độ C. Rất nhiều người đã chết vì lạnh, khi cuộc hành quân phải cắm trại ngoài trời trong điều kiện khắc nghiệt không nơi trú ẩn và thiếu lương thực.
Nhưng tuyết lạnh không phải là tử thần duy nhất. Trong suốt chặng đường dài hơn 90 dặm (khoảng 144km) từ Kabul tới Jelalabad, đoàn người bị các bộ lạc Afghanistan phục kích dọc đường, giết và cướp dần lương thực. Với tình trạng đói kém và suy nhược, cùng tâm lý tháo chạy, quân lính Anh không thể chống chọi lại dù chỉ là những đợt tấn công nhỏ lẻ nhất.
Tới ngày 10/1, lực lượng quân đội trong đoàn người chỉ còn lại khoảng 1,000 lính. Các vị trí cửa ngõ độc đạo trong vùng núi Afghanistan giúp cho việc tập kích trở nên cực kỳ dễ dàng. Những trận chiến thực tế trở thành các cuộc thảm sát không lối thoát cho đoàn người đói khát.
Tới ngày 16/1, những người người lính Anh canh gác thành Jelalabad nhìn thấy một đồng đội của mình khật khưỡng trên một con ngựa bị thương nặng tiến lại gần. Họ nhanh chóng đón anh ta vào thành và hỏi anh ta đoàn quân hơn 16.5000 người bao giờ mới tới, người lính bị thương trả lời: “Tôi chính là đoàn quân đó đây.” Nhiều câu chuyện đã được thêu dệt, nhưng khá nhiều người đồng tình với giả thuyết là các bộ lạc đã cho phép anh ta được sống, để làm nhân chứng duy nhất kể lại với người Anh và thế giới về sức mạnh của Afghanistan.
[1] Vì lý do nào đó không ai hiểu, khu quân nhu được xây ở bên ngoài khu quân sự.