Diến tiến cuộc đột kích
Sau khi Đức Quốc xã chiếm nước Pháp ngày 25-6-1940, hơn 6 sư đoàn quân Đức ở Pháp phần lớn phải dựa vào nguồn tiếp tế từ Đức đưa sang. Các báo cáo của điệp viên nằm vùng ở Pháp gửi về Anh cho thấy từ tháng 12-1940 đến tháng 6-1942, cảng Bordeaux đã tiếp nhận hơn 126 nghìn tấn vũ khí, đạn dược, 240 xe tăng các loại, 18 triệu lít dầu thực vật, 25 nghìn tấn cao su thô, 75 nghìn tấn bột mì cùng hàng nghìn tấn xăng dầu, lương khô, đồ hộp…
Vì thế, cắt đứt con đường tiếp tế này là một phần trong nỗ lực của Anh quốc nhằm ngăn chặn quân Đức xâm lược nước Anh, và đích thân Thủ tướng Churchill giao nhiệm vụ cho lực lượng Thủy quân lục chiến Hoàng gia. Đây được xem như những hoạt động đầu tiên của Lực lượng thuyền đặc biệt – Special Boat Servive – viết tắt là SBS, chuyên thực hiện những vụ phá hoại nhắm vào hậu phương quân Đức.
Việc cắt đứt con đường tiếp tế của Đức ở cảng Bordeaux được đặt tên là Chiến dịch Frankton. Theo kế hoạch, tàu ngầm Seawolf 47S sẽ đưa nhóm biệt kích 12 người dưới sự chỉ huy của thiếu tá Herbert Blondie Hasler cùng 6 chiếc thuyền kayak đến một địa điểm nằm trong vịnh Biscay, cách cửa sông Gironde dẫn vào cảng Bordeaux 12km.
Tại vị trí này, tàu ngầm Seawolf thả 6 chiếc kayak gồm thuyền thứ nhất mật danh Catfish với thiếu tá Hasler và lính thủy Bill Sparks, thuyền thứ hai mật danh Crayfish với hạ sĩ Albert Laver và lính thủy William Mills. Chiếc thứ ba mật danh Cuttlefish có trung úy John Mackinnon và lính thủy James Conway. Chiếc thứ tư mật danh Coalfish với trung sĩ Samual Wallace và lính thủy Robert Ewart, chiếc thứ năm mật danh Conger gồm hạ sĩ George Sheard và lính thủy David Moffat còn chiếc cuối cùng mật danh Cachalot có 2 lính thủy là Ellery và E. Fisher.
Trang bị của họ ngoài 8 quả mìn nam châm Limpet với sức công phá lớn thì còn có la bàn, dây đo độ sâu, túi cứu sinh, đèn pin,lưới ngụy trang, dây câu cá, khẩu phần ăn và nước trong 6 ngày. Bên cạnh đó, mỗi thành viên đều mang theo 1 khẩu súng ngắn với 48 viên đạn và 1 dao găm.
Thế rồi 7 giờ tối ngày 30-11, dưới sự chỉ huy của trung táthuyền trưởng Dick Raikes,tàu ngầm tàu ngầm Seawolf 47S rời cảng Holy Loch, Scotland cùng nhóm biệt kích. Nhằm tránh những bãi thủy lôi rải trên eo biển Manche, tàu Seawolf vòng lên phía bắc rồi mới chuyển hướng. Theo dự kiến, nó sẽ thả 12 biệt kích và 6 thuyền kayak vào đêm 6-12 nhưng do thời tiết xấu, xẩm tối ngày 7-12 nó mới đến được vị trí đã định. Chưa hết, khi nổi lên để thả thuyền, một bên thân của chiếc kayak mật danh Cachalot bị vỡ do va chạm với cánh cửa sập của tàu ngầm. Hệ quả là 2 thành viên trên thuyền Cachalot phải theo tàu ngầm quay về.
9 giờ tối 7-12, 10 biệt kích còn lại trên 5 chiếc thuyền kayak cố gắng chống chọi với thủy triều mạnh và những cơn gió giật ngang khi ngược sông Gironde. Đến gần 11 giờ, không ai nhìn thấy chiếc Coalfish đâu nữa. Chưa hết, một con sóng cao 2,5 m làm lật úp chiếc Conger khiến 2 người trên thuyền này phải bám vào đáy thuyền khiến tốc độ di chuyển chậm lại cho đến khi gió ngớt, họ mới lật được thuyền lên. Cũng lúc này, cả nhóm gặp lại chiếc Coalfish và may mắn là trung sĩ Samual Wallace cùng lính thủy Robert Ewart đều bình an.
Tổn thất ngoài dự kiến
1 giờ sáng ngày 8-12, nhóm biệt kích lặng lẽ vượt qua một trạm kiểm soát của Đức Quốc xã trên sông Gironde trong cơn mưa tầm tã. Sau đó, họ phải lẩn tránh 3 tàu khu trục nhỏ. Từ cửa sông Gironde đến cảng Bordeaux dài hơn 90km nên ngày 9-2, họ phải tách ra, ẩn nấp trong những cánh rừng ngập nước hai bên bờ sông, đợi trời tối mới di chuyển. Thế nhưng lúc 9 giờ tối, khi thiếu tá Hasler phát lệnh khởi hành thì không thấy thuyền Conger và thuyền Cuttlefish đâu nữa.
Dù vậy, những người còn lại vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Trong 5 tiếng, họ đi được 32km. Khi dừng lại ở một khu rừng gần St Vivien du Medoc, họ vẫn không thấy bóng dáng của 4 thành viên trên 2 chiếc Conger và Cuttlefish nhưng chẳng ai ngờ rằng 2 người trên chiếc Cuttlefist là MacKinnon và Conway đã bị quân Đức bắt khi họ đi lạc vào khu vực ngọn hải đăng Pointe de Grave, còn với hạ sĩ George Sheard và lính thủy David Moffat trên chiếc Conger cũng bị quân Đức bắt. Do đã thống nhất với nhau từ trước nên tất cả đều khai rằng họ là lính bộ binh Anh quốc, đã trú đóng ở Pháp từ trước khi người Đức chiếm quốc gia này và họ đang tìm đường trở lại Anh. Họ bị giam tại nhà tù La Reole, cách cảng Bordeaux 48km.
Đêm thứ ba, 10-12, lại thêm chiếc Coalfish mất tích. Lúc này nhóm biệt kích chỉ còn lại chiếc Catfish và chiếc Crayfish với 4 thành viên. Do thủy triều xuống thấp nên họ chỉ đi được 14km. Vì thế thiếu tá Hasler ra lệnh dừng lại trong lúc theo kế hoạch, đêm 12 chính là đêm họ phải đặt mìn phá tàu. Suốt cả ngày hôm ấy tại nơi ẩn nấp, nhóm biệt kích ôn lại những thao tác trong việc cài đặt đồng hồ hẹn giờ nổ rồi 9 giờ tối, họ tiếp tục lên đường. Thiếu tá Hasler quyết định ông và lính thủyBill Sparks sẽ đặt mìn vào những chiếc tàu neo ở phía tây cảng, còn chiếc Crayfish của hạ sĩLaver và lính thủy Mills sẽ đặt mìn vào những chiếc tàu neo ở phía đông.
Gần nửa khuya ngày 12, chiếc Catfish và chiếc Crayfish đến mục tiêu. Mặt biển phẳng lặng, thỉnh thoảng những chiếc đèn pha lại quét vài vòng trên mặt nước. Trên bờ vài nhóm lính Đức tuần tra đi lại. Cho thuyền kayak áp sát lườn một tàu hàng, Hasler cùng Bill Spark ôm mìn lặn xuống. Họ đặt 8 quả mìn Limpet vào 3 tàu hàng và 1 tàu tuần tra lớp Sperrbrecher. Một lính canh trên tàu này hình như phát hiện điều gì đó nên chiếu đèn xuống nước nhưng không nhìn thấy Hasler và Bill Spark.
Về phía tàu Crayfish, hạ sĩ Laver và lính thủy Mills khi đến phía đông cảng Bordeaux thì chẳng phát hiện một tàu hàng nào. Vì vậy họ quay trở lại, đặt 5 quả mìn Limpet vào một tàu hàng lớn ở ụ Bassens và 3 quả vào một tàu hàng nhỏ. Cả nhóm 4 người khỏi cảng lúc 1 giờ 45 phút sáng 13-12.
2 giờ 10 phút, tất cả những quả mìn Limpet phát nổ, 3 tàu hàng và 1 tuần tra bị phá hủy hoàn toàn, 2 tàu khác hư hại nặng. 4 người trong nhóm biệt kích rút lui đến gầnmũi St Genes de Blayethì thiếu tá Hasler ra lệnh phá hủy thuyền. Tiếp theo, họ chia thành 2 nhóm riêng rẽ, đi bộ đến biên giới Tây Ban Nha. Từ đó họ sẽ tiếp cận với một tổ chức kháng chiến để nhờ tổ chức này đưa họ về lại nước Anh.
5 giờ sáng, hạ sĩ Laver và lính thủy Mills đi trước, thiếu tá Hasler cùng Bill Spark sẽ khởi hành sau họ 30 phút. Tất cả trang bị dùng cho vụ đặt mìn đều được chôn lấp, kể cả túi thực phẩm cứu sinh. Họ mặc quần áo dân sự men theo những con đường mòn, tránh xa mọi làng mạc, nông trại. Thức ăn của họ chủ yếu là khoai tây đào trộm trên những cánh đồng, được nướng vào sáng sớm, khi sương mù chưa tan để che dấu khói. Họ cũng tìm hái những quả táo cuối mùa, câu cá, đặt bẫy những con chuột đồng.
Cuối ngày thứ 2 của cuộc vượt thoát, hạ sĩ Laver và lính thủy Mills bất ngờ gặp một nhóm 3 người đàn ông Pháp khi họ vừa rẽ qua một khúc quanh trong rừng. Biết là không thể dấu được giọng nói và hình dạng của mình, nhất là vụ đánh mìn ở cảng Bordeaux, hạ sĩ Laver cho 3 người Pháp biết họ là biệt kích Anh, đang tìm đường đến biên giới Tây Ban Nha. Nghe xong, nhóm người Pháp tự giới thiệu mình là du kích của tổ chức kháng chiến “Pháp tự do”. Họ hứa sẽ đưa Laver và Mills vượt thoát an toàn nhưng khi đến gần làng Montlieu-la-Garde, một người Pháp tách ra đi trước, nói là để dò đường nhưng chỉ khoảng 30 phút, hơn 30 mật vụ Gestapo Đức ập đến. Lúc ấy Laver và Mills mới biết mình đã gặp bọn chỉ điểm!
Sự thật không dễ thừa nhận
Ngày 16-12, quân đội Đức ở Bordeaux thông báo “đã bắt được một nhóm biệt kích Anh âm mưu phá hoại cảng”. Khi chiến tranh kết thúc, hồ sơ thu được từ cơ quan mật vụ Gestapo và từ quân đội Đức ở Pháp cho thấy Wallace và Ewart, là 2 người đi trên thuyền Coalfish, mất tích đêm 10-12 thì thật ra đã bị bắt. Sau khi bị tra tấn để khai thác nhưng trước sau họ vẫn khẳng định rằng họ là lính Anh đi lạc, cả Wallace lẫn Ewart bị xử bắn trong một khu rừng phía bắc Bordeaux. Xác họ bị vùi trong một hố cát. Số phận của Laver và Mills cũng chẳng khá hơn. Do tự nhìn nhận mình là biệt kích Anh với 3 kẻ chỉ điểm giả danh kháng chiến, họ bị giam và bị hỏi cung nhiều ngày liền với những hình thức rất dã man. Cuối cùng khi chẳng khai thác được gì, lính Đức bắn họ.
Với MacKinnon và Conway trên chiếc Cuttlefish, họ bị giam đến tháng 12-1942 rồi cũng bị xử tử, còn Sheard và Moffatt thì một số người dân sống ven sông Gironde cho biết họ nhìn thấy xác của 2 người này cùng chiếc thuyền kayak tấp vào bờ cách đó khoảng 2km. Cả thuyền lẫn người đều không có dấu hiệu bị bắn. Theo suy đoán, có lẽ thuyền bị lật, Sheard và Moffatt phải nhảy xuống nước rồi chết vì hạ thân nhiệt bởi lẽ nước sông Gironde thời điểm ấy chỉ khoảng 6 độ C.
Về phía thiếu tá Hasler và lính thủy Sparks, sau nhiều ngày lẩn trốn, họ đến được thị trấn Ruffec, Pháp, cách cảng Bordeaux 160km. Tại đây, họ liên lạc được với một đầu mối thuộc tổ chức kháng chiến “Pháp tự do” là bà Mary Lindell, chủ khách sạn Toque Blanche và Maurice, con trai bà. Sau khi cung cấp cho Hasler và Sparks một số giấy tờ giả, họ được đưa đến ẩn náu trong một trang trại. Hasler và Sparks ở đó trong 18 ngày rồi được một nhóm kháng chiến dẫn đi bộ qua dãy núi Pyrenees. Chuyến đi kéo dài 3 tuần trong những điều kiện rất gian khổ. Cuối cùng họ đến Tây Ban Nha an toàn.
Thế chiến II kết thúc, giữa năm 1946 Bộ Tư lệnh thủy quân lục chiến Anh Quốc mở cuộc điều tra về số phận của 8 biệt kích hy sinh trong chiến dịch Frankton. Bản tổng kết cho thấy về một mặt nào đó, nó đã thành công với 5 tàu Đức bị hư hỏng nặng nhưng tính hiệu quả xét về mặt tổng thể lại không như ý muốn. Chỉ khoảng nửa tháng sau vụ tập kích, người Đức đã khôi phục lại việc vận chuyển hàng tiếp liệu với cường độ lớn hơn. Đã vậy, khi tiến hành thực hiện vụ đánh mìn, nhóm biệt kích lại không được phép mang theo điện đài vì sợ người Đức theo dấu, truy lùng họ nên kể từ lúc chiếc tàu ngầm Seawolf 47S thả họ xuống vịnh Biscay, Bộ Chỉ huy SBS ở London không còn biết tin tức gì về họ, để mặc họ đơn thân hành động trong lòng địch.
Bên cạnh đó, do không thông thạo địa hình và nhất là không có sự phối hợp chặt chẽ với tổ chức kháng chiến “Pháp tự do” trong việc dẫn đường nên đã đưa đến sự thiệt mạng của 8 thành viên. Có lẽ vì thế nên trong buổi tổng kết chiến dịch Frankton, thiếu tá Hasler, người cầm đầu nhóm biệt kích nói: “Ngay từ lúc bước xuống tàu ngầm, tôi đã biết cái chết đến với tôi và những đồng đội của tôi gần như là chắc chắn…”.
( Theo War History – Operation Frankton)