Trang chủ Kiến Thức Minh sử – An Nam truyện

Minh sử – An Nam truyện

Một phần bản dịch của thành viên Ẩn Sĩ, diễn đàn Lịch Sử Việt Nam.

十年,灝卒,私諡聖宗。其改元二:� �順十年,洪德二十八年。子暉繼,一� ��鏳,遣使告訃,命行人徐鈺往祭。尋 賜暉皮弁服、金犀帶。其使臣言,國� �受王封,賜服與臣下無別,乞改賜。� ��官言:「安南名為王,實中國臣也。 嗣王新立,必賜皮弁冠服,使不失主� �一國之尊,又賜一品常服,俾不忘臣� ��中國之義。今所請,紊亂祖制,不可 許。然此非使臣罪,乃通事者導之妄� �,宜懲。」帝特宥之。十七年,暉卒� ��私諡憲宗,其改元曰景統。子��� ���繼,一名敬甫,七月而卒,私� �肅宗。弟誼繼,一名璿。
Năm (Hoằng Trị) thứ mười (năm 1497), (Lê) Hạo chết, truy thụy là Thánh Tông, cả thảy hai lần đổi niên hiệu, mười năm hiệu Quang Thuận, hai mươi tám năm hiệu Hồng Đức. Con là Huy nối ngôi, còn có tên là Tranh, sai sứ báo tang, (vua Minh) sai Hành nhân là Từ Ngọc đến cúng tế. Rồi ban mũ bì biện, dây buộc kim tê cho Huy. Sứ thần của Huy nói: “Quốc chủ nhận phong vương mà được ban mũ không khác với bầy tôi, xin đổi lại.” Quan bộ Lễ nói: “An Nam có tiếng là được phong vương nhưng thực là bầy tôi của Trung Quốc. Vương nối ngôi mới lập, phải ban cho mũ áo bì biện, khiến cho bên ấy không làm mất ngôi cao chủ tể của một nước, lại ban cho thường phục nhất phẩm là khiến cho bên ấy không quên cái nghĩa theo thờ Trung Quốc. Nay bên ấy xin đổi là làm loạn phép cũ, không nên nghe theo. Nhưng đấy không phải là tội của sứ thần mà là quan Thông sự (phiên dịch) dẫn lời ấy tấu xằng, nên trừng trị.” Vua đặc cách tha cho. Năm thứ mười bảy (năm 1504), Huy chết, truy thụy là Hiến Tông, đổi niên hiệu một lần là hiệu Cảnh Thống. Con là Khiên, còn có tên là Kính Phủ thay lập, ở ngôi được bảy tháng thì chết, truy thụy là Túc Tông. Em là Nghị, còn có tên là Tuyền lập.

武宗踐阼,命修撰倫文敍、給事中張� �至詔諭其國。誼亦遣使告訃,命官致� ��如常儀。正德元年册為王。誼寵任母 黨阮种、阮伯勝兄弟,恣行威虐,屠� �宗親,酖殺祖母。种等怙寵竊權,四� ��逼誼自殺,擁立其弟伯勝,貶誼為厲 愍王。國人黎廣等討誅之,立灝孫晭� �改諡誼威穆帝。誼在位四年,改元端� ��。晭,一名瀅,七年受封,多行不義 。
Võ Tông lên ngôi, sai bọn Tu soạn là Luân Văn Tự, Cấp sự trung là Trương Hoằng mang chiếu thư đến dụ vua nước ấy. Nghị cũng sai sứ sang báo tang, (vua) sai sứ sang cúng tế như lệ thường. Năm Chính Đức thứ nhất (năm 1506), phong (Nghị) làm vương. Nghị tin dùng người bên họ mẹ là anh em Nguyễn Chủng-Nguyễn Bá Thắng, bọn ấy phóng túng ngang ngược, giết hại tông tộc (họ Lê), dùng thuốc độc giết bà nội. Bọn Chủng cậy được tin dùng mà dòm ngó quyền cao. Đến năm (Chính Đức) thứ tư thì ép Nghị tự sát, chọn lập em nó là Bá Thắng, giáng Nghị làm Lệ Mẫn Vương. Người trong nước là bọn Lê Quảng đánh giết được bọn Chủng, lập cháu của Hạo là Chửu làm vua, đổi thụy cho Nghị là Uy Mục Đế. Nghị ở ngôi được bốn năm, một lần đổi niên hiệu là Đoan Khánh. Chửu còn có tên là Oánh, năm (Chính Đức) thứ bảy thì nhận tước phong, làm nhiều việc bất nghĩa.

十一年,社堂燒香官陳暠與二子昺、� �作亂,殺晭而自立。詭言前王陳氏後� ��仍稱大虞皇帝,改元應天,貶晭為靈 隱王。晭臣都力士莫登庸初附暠,後� �黎氏大臣阮私裕等起兵討之。暠敗走� ��獲昺及其黨陳璲等。暠與昇奔諒山道 ,據長寧、太原、清節三府自保。登� �等乃共立晭兄灝之子譓,改諡晭襄翼� ��。晭在位七年,改元洪順。譓將請封 ,因國亂不果。以登庸有功,封武川� �,總水陸諸軍。旣握兵柄,潛蓄異志� ��黎氏臣鄭綏,以譓徒擁虛位,別立其 族子酉榜,發兵攻都城。譓出走,登� �擊破綏兵,捕酉榜殺之,益恃功專恣� ��遂逼妻譓母,迎譓歸,自為太傅仁國 公。十六年率兵攻陳暠,暠敗走死。
Năm (Chính Đức) thứ mười một (năm 1516), Xã đường thiêu hương quan là Trần Cảo cùng hai con là Bỉnh-Thăng làm loạn, giết Chửu mà tự lập, nói dối là dòng dõi họ Trần làm vương thủa trước, lại xưng là Đại Ngu Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Ứng Thiên, giáng Chửu làm Linh Ẩn Vương. Bầy tôi của Chửu làm Đô lực sĩ là Mạc Đăng Dung lúc đầu theo giúp Cảo, sau cùng đại thần của họ Lê là bọn Nguyễn Hoằng Dụ dấy binh đánh Cảo. Cảo thua chạy, bắt được Bỉnh và bộ chúng của Cảo là bọn Trần Toại. Cảo cùng Thăng chạy đến đạo Lạng Sơn, chiếm lấy ba phủ Tràng Ninh-Thái Nguyên-Thanh Tiết để tự giữ. Bọn Đăng Dung bèn cùng lập anh của Chửu con của Hạo là Huệ làm vua, đổi thụy cho Chửu là Tương Dực Đế. Chửu ở ngôi bảy năm, một lần đổi niên hiệu là Hồng Thuận. Huệ muốn xin phong vương nhưng do nước loạn không sang được, lại vì Đăng Dung có công được phong làm Võ Xuyên Bá, tổng đốc các quân thủy-lục. Đăng Dung đã nắm binh quyền, ngầm nuôi chí khác. Bầy tôi của họ Lê là bọn Trịnh Tuy thấy Huệ chỉ có ngôi hão, bèn lập riêng người trong họ (Lê) là Dậu Bảng, phát binh đánh đô thành (Thăng Long). Huệ chạy ra. Đăng Dung đánh phá bọn Tuy, bắt giết được Dậu Bảng, càng cậy công chuyên quyền, rồi ép lấy mẹ của Huệ, đón Huệ về, tự xưng làm Thái phó Nhân Quốc Công. Năm (Chính Đức) thứ mười sáu, phát binh đánh Trần Cảo, Cảo thua chạy chết.

嘉靖元年,登庸自稱安興王,謀弒譓� �譓母以告,乃與其臣杜溫潤間行以免� ��居於清華。登庸立其庶弟懬,遷居海 東長慶府。世宗踐阼,命編修孫承恩� �給事中兪敦詔諭其國。至龍州,聞其� ��大亂,道不通,乃却還。四年夏,譓 遣使間道通貢,幷請封,為登庸所阻� �明年春,登庸賂欽州判官唐清,為懬� ��封。總督張嵿逮清,死於獄。六年, 登庸令其黨范嘉謨偽為懬禪詔,篡其� �,改元明德,立子方瀛為皇太子。旋� ��殺懬,諡為恭皇帝。逾年,遣使來貢 ,至諒山城,被攻而還。九年,登庸� �位於方瀛,自稱太上皇,移居都齋、� ��陽,為方瀛外援,作大誥五十九條, 頒之國中。方瀛改元大正。其年九月� �黎譓卒於清華,國亡。
Năm Gia Tĩnh thứ nhất (năm 1522), Đăng Dung tự xưng là An Hưng Vương, mưu giết Huệ, mẹ Huệ báo cho Huệ biết, bèn cùng bầy tôi là Đỗ Ôn Nhuận lẻn đi để tránh, đến ở phủ Thanh Hoa. Đăng Dung lập em thứ của Huệ là Khoáng, rồi dời đến ở phủ Tràng Khánh đạo Hải Đông. Vào lúc Thế Tông lên ngôi, sai bọn Biên tu là Tôn Thừa Ân, Cấp sự trung là Du Đôn mang chiếu thư sang dụ nước ấy. Đến huyện Long Xuyên, nghe tin nước ấy loạn to, đường đi không thông, bèn quay về. Năm (Gia Tĩnh) thứ tư, mùa hạ, Huệ sai sứ đi tắt sang cống cùng xin phong, bị Đăng Dung ngăn chặn. Năm sau, mùa xuân, Đăng Dung hối lộ cho Phán quan Khâm châu là Đường Thanh, cầu phong cho Khoáng. Tổng đốc (Lưỡng Quảng) là Trương Đính bắt Thanh chết ở trong ngục. Năm (Gia Tĩnh) thứ sáu, Đăng Dung sai bộ chúng là bọn Phạm Gia Mô giả làm chiếu nhường ngôi của Khoáng, soán lấy ngôi vua, đổi niên hiệu là Minh Đức, lập con là Phương Doanh làm Hoàng thái tử. Làm thuốc độc giết Khoáng, truy thụy là Cung Hoàng Đế. Năm sau, sai sứ sang cống, đến thành Lạng Sơn thì bị đánh mà về. Năm (Gia Tĩnh) thứ chín, Đăng Dung nhường ngôi cho Phương Doanh, tự xưng là Thái thượng hoàng, dời đến ở các phủ Đô Trai-Hải Dương để làm ngoại viện cho Phương Doanh, soạn văn đại cáo có năm mươi chín điều ban bố trong nước. Phương Doanh đổi niên hiệu là Đại Chính. Năm đó, tháng chín, Lê Huệ chết ở phủ Thanh Hoa, nước mất.

十五年冬,皇子生,當頒詔安南。禮� �夏言言:「安南不貢已二十年,兩廣� ��臣謂黎譓、黎懬均非黎晭應立之嫡, 莫登庸、陳暠俱彼國纂逆之臣,宜遣� �按問,求罪人主名。且前使旣以道阻� ��通,今宜暫停使命。」帝以安南叛逆 昭然,宜急遣官往勘,命言會兵部議� �討。言及本兵張瓚等力言逆臣篡主奪� ��,朝貢不修,決宜致討。乞先遣錦衣 官二人往覈其實,敕兩廣、雲南守臣� �兵積餉,以俟師期,制可。乃命千戶� ��鳳儀、鄭璽等,分往廣西、雲南,詰 罪人主名,敕四川、貴州、湖廣、福� �、江西守臣,預備兵食,候征調。戶� ��侍郞唐胄上疏,力陳用兵七不可,語 詳其傳中,末言:「安南雖亂,猶頻� �表箋,具方物,款關求入。守臣以其� ��名不符,拒之。是彼欲貢不得,非負 固不貢也。」章下兵部,亦以為然,� �俟勘官還更議。
Năm (Gia Tĩnh) thứ mười lăm (năm 1536), mùa đông, hoàng tử được sinh, sắp ban chiếu cho An Nam biết. Quan bộ Lễ là Hạ Ngôn nói: “An Nam không sang cống đã hai chục năm, bầy tôi trấn thủ Lưỡng Quảng bảo là bọn Lê Huệ-Lê Khoáng đều là con cả đáng được lập của Lê Chửu, còn bọn Mạc Đăng Dung-Trần Cảo là bầy tôi soán nghịch của nước ấy, nên sai sứ sang xét hỏi, tìm ra đúng kẻ có tội. Vả lại sứ giả lúc trước đã vì đường đi không thông, nay nên tạm dừng đi sứ.” Vua thấy người An Nam phản nghịch đã rõ, nên nhanh sai sứ sang hỏi tội, bèn lệnh cho Ngôn hội bộ Binh bàn việc đánh dẹp. Ngôn cùng quan bộ Binh là bọn Trương Toản sa sức nói rằng: “Bầy tôi phản nghịch cướp ngôi, không lo chầu cống, phải nên đến đánh. Xin sai hai quan Cẩm y đến xét sự thật trước, hạ lệnh cho bầy tôi trấn thủ Lưỡng Quảng-Vân Nam sắm chứa lương thực để đợi quân triều đình đến.” Vua hạ chiếu cho phép, rồi sai bọn Thiên hộ là Đào Phượng Nghi-Trịnh Tỉ chia ra đến Quảng Tây-Vân Nam, xét tìm kẻ có tội, hạ lệnh quan lại trấn thủ các tỉnh Tứ Xuyên-Quý Châu-Hồ Quảng-Giang Tây sắm sửa binh lương, đợi ngày đi đánh. Hộ bộ thị lang là Đường Trụ dâng sớ ra sức nói bảy điều không nên (dùng binh), lời này chép rõ ở trong truyện về người này, cuối sớ có nói: “An Nam tuy loạn nhưng vẫn vâng chiếu lệnh, sắm phương vật, đến cửa ải xin vào. Bầy tôi trấn thủ (biên giới) vì thấy họ tên không khớp mới chống lại. Đấy là bên ấy muốn cống nhưng không được, không đáng trách tội không sang cống.” Hạ lệnh cho bộ Binh xét, cũng cho là như thế, bèn sai đợi quan xét hỏi về mới bàn chuyện ấy (dùng binh).

十六年,安南黎寧遣國人鄭惟僚等赴� �,備陳登庸篡弒狀,言:「寧卽譓子� ��譓卒,國人立寧為世孫,權主國事。 屢馳書邊臣告難,俱為登庸邀殺。乞� �師問罪,亟除國賊。」時嚴嵩掌禮部� ��謂其言未可盡信,請羈之,待勘官回 奏,從之。尋召鳳儀等還,命禮、兵� �部會廷臣議,列登庸十大罪,請大振� ��斷,剋期徂征。乃起右都御史毛伯溫 於家,參贊軍務,命戶部侍郞胡璉、� �公韶先馳雲、貴、兩廣調度軍食,以� ��督僉事江桓、牛桓為左、右副總兵, 督軍征討,其大將需後命。兵部復奉� �,條用兵機宜十二事。獨侍郞潘珍持� ��可,抗疏切諫。帝怒,褫其職。兩廣 總督潘旦亦馳疏請停前命,言:「朝� �方興問罪之師,登庸卽有求貢之使,� ��因而許之,戒嚴觀變,以待彼國之自 定。」嚴嵩、張瓚窺帝旨,力言不可� �,且言黎寧在清都圖恢復,而旦謂彼� ��俱定,上表求貢,決不可許。旦疏遂 寢。五月,伯溫至京,奏上方略六事� �以旦不可共事,請易之,優旨褒答。� ��兵部議上,帝意忽中變,謂黎寧誠偽 未審,令三方守臣從宜撫剿,參贊、� �餉大臣俱暫停,旦調用,以張經代之� ��時御史徐九皐、給事中謝廷菃以修省 陳言,亦請罷征南之師。
Năm (Gia Tĩnh) thứ mười sáu (năm 1537), người An Nam là Lê Ninh sai người trong nước là Trịnh Duy Liêu đến kinh, kể hết tội soán nghịch của Đăng Dung, nói: “Ninh là con của Huệ. Huệ chết, người trong nước lập Ninh làm thế tôn, quyền chủ việc nước. Thường mang thư đến chỗ bầy tôi ở biên giới cáo nạn nhưng đều bị Đăng Dung chặn giết. Xin phát binh hỏi tội, dẹp trừ giặc nước.” Bấy giờ Nghiêm Tung đứng đầu bộ Lễ, bảo là lời ấy chưa nên tin hết, xin đi hỏi kĩ, đợi quan đi xét hỏi về tấu, bèn nghe theo. Rồi gọi bọn Phượng Nghi về, sai hai bộ Lễ-Binh hội bầy tôi bàn việc, khép Đăng Dung vào mười tội lớn, xin triều đình xử đoán, hẹn ngày đi đánh. Bèn gọi Hữu đô ngự sử là Mao Bá Ôn bấy giờ đang ở nhà đến làm Tham tán quân vụ, sai bọn Hộ bộ thị lang là Hồ Liễn-Cao Công Thiều đi nhanh đến Vân-Quý-Lưỡng Quảng trước để điều động binh lương, lấy bọn Đô đốc thiêm sự là Giang Hoàn-Ngưu Hoàn làm Tả-Hữu phó tổng binh, cùng phát binh đi đánh, sai đại tướng của quân ấy đợi lệnh sau. Bộ Binh lại vâng chiếu lệnh, ban bố hai mươi điều nên làm khi dùng binh. Chỉ có Thị lang là Phan Trân chống lại cho là không nên, dâng sớ gấp gáp can ngăn. Vua giận, cách chức của Trân. Tổng đốc Lưỡng Quảng là Phan Đán cũng đi nhanh dâng sớ xin dừng lệnh trước, nói: “Triều đình vừa phát binh hỏi tội thì Đăng Dung liền sai sứ sang xin cống, nên nhân đó mà nghe theo, dừng lại xem sự biến để đợi nước ấy tự quyết định.” Nghiêm Tung-Trương Toản xem ý vua, ra sức nói là không nên tha, lại nói là Lê Ninh ở Thanh Đô (Thanh Hóa) mưu đồ khôi phục mà Đán nói nước ấy tự yên định, dâng biểu xin cống, quyết không nên nghe theo. Sớ của Đán bèn bị gạt đi. Tháng năm, Bá Ôn đến kinh, tấu dâng sáu điều phương lược, cho rằng không thể cùng làm việc với Đán, xin đổi người khác, vua khen ngợi nghe theo. Kịp lúc bộ Binh bàn lấu lên, vua lại chợt đổi ý giữa chừng, cho là Lê Ninh thật giả chưa rõ, hạ lệnh quan lại trấn thủ ba tỉnh (Lưỡng Quảng-Vân Nam) phải tùy tình thế mà vỗ về, các đại thần tham tán-đốc binh lương đều tạm dừng, Đán được điều dùng việc khác, lấy Trương Kinh thay Đán. Bấy giờ bọn Ngự sử là Từ Cửu Cao, Cấp sự trung là Tạ Đình Cừ cũng nói lời đổi ý, cũng xin bãi binh đánh miền nam.

八月,雲南巡撫汪文盛以獲登庸間諜� �所撰偽大誥上聞。帝震怒,命守臣仍� ��前詔征討。時文盛招納黎氏舊臣武文 淵得其進兵地圖,謂登庸以可破,遂� �之朝。廣東按臣余光言:「莫之篡黎� ��猶黎之篡陳,不足深較。但當罪其不 庭,責以稱臣修貢,不必遠征,疲敝� �國。臣已遣使宣諭,彼如來歸,宜因� ��撫納。」帝以光輕率,奪祿一年。文 盛卽傳檄安南,登庸能束身歸命,籍� �輿圖,待以不死。於是登庸父子遣使� ��表乞降,且投牒文盛及黔國公沐朝輔 ,具述黎氏衰亂,陳暠叛逆,己與方� �有功,為國人歸附,所有土地,已載� ��統志中,乞貰其罪,修貢如制。朝輔 等以十七年三月奏聞,而黎寧承前詔� �懼天朝竟納其降,備以本國篡弒始末� ��軍馬之數、水陸進兵道裏來上。俱下 兵部,集廷臣議。僉言莫氏罪不可赦� �亟宜進師。請以原推咸寧侯仇鸞總督� ��務,伯溫仍為參贊,從之。張經上言 :「安南進兵之道有六,兵當用三十� �,一歲之餉當用百六十萬,造舟、市� ��、制器、犒軍諸費又須七十餘萬。況 我調大衆,涉炎海,與彼勞逸殊勢,� �可不審處也。」疏方上,欽州知州林� ��元又力陳登庸可取狀。兵部不能決, 復請廷議。及議上,帝不悅曰:「朕� �卿士大夫私議,咸謂不當興師。爾等� ��司邦政,漫無主持,悉委之會議。旣 不協心謀國,其已之。鸞、伯溫別用� �」
Tháng tám, Tuần phủ Vân Nam là Uông Văn Thịnh bắt được gián điệp và đại cáo mà Đăng Dung soạn gửi về, vua cả giận, sai quan lại trấn thủ ở biên giới vẫn nghe theo chiếu lệnh đánh dẹp lúc trước. Bấy giờ Văn Thịnh chiêu nạp bầy tôi cũ của họ Lê là bọn Võ Văn Uyên, thu được bản đồ đường tiến binh vào nước ấy, bảo là có thể phá được Đăng Dung, bèn dâng về triều đình. Quan Tuần án Quảng Đông là Từ Quang nói: “Họ Mạc soán ngôi họ Lê cũng như họ Lê soán ngôi họ Trần, không đáng để xét kĩ. Chỉ nên kể tội họ không đến chầu, sai phải xưng thần sang cóng, không nên đi đánh nơi xa làm cho Trung Quốc mệt mỏi. Thần đã sai sứ sang dụ, nếu bên ấy đến theo thì nên nhân đó mà vỗ về.” Vua cho là Quang khinh suất, cắt bổng lộc một năm. Văn Thịnh liền truyền hịch đến An Nam, bảo rằng nếu Đăng Dung trói mình theo hàng, dâng cả bản đồ thì tha cho không giết. Do đó cha con Đăng Dung sai sứ mang biểu đến xin hàng, lại gửi thư đến cho Văn Thịnh và Kiềm Quốc Công là Mộc Triều Phụ, kể rõ việc họ Lê suy loạn, Trần Cảo phản nghịch, mình với Phương Doanh có công được người trong nước nương về, còn đất đai mà mình có thì đã chép trong Nhất thống chí, xin được chuộc tội, sang cống như cũ. Bấy giờ là năm (Gia Tĩnh) thứ mười bảy, tháng ba, bọn Triều Phụ tấu lên thì Lê Ninh đã vâng chiếu lệnh cũ, sợ triều đình sẽ thu nạp biểu xin hàng của Đăng Dung, bèn kể rõ số quân mã và chuyện soán nghịch trước sau của nước ấy, vạch đường lối tiến binh thủy-lục báo cho vua biết. Vua lại hạ lệnh cho bộ Binh hội bầy tôi bàn việc, đều nói là không nên tha cho họ Mạc, phải nên cho quân vào đánh, xin suy xét lấy Hàm Ninh Hầu là Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, lấy Bá Ôn vẫn làm Tham tán, vua nghe theo. Trương Kinh dâng sớ nói: “Có sáu đường tiến binh vào An Nam, phải dùng đến ba chục vạn quân, một năm dùng được một trăm sáu mươi vạn (thạch) lương, phí làm thuyền, mua ngựa, làm võ khí, khao quân lại khoảng hơn bảy chục vạn (tiền). Huống chi ta điều đại quân lội vào nơi nước lửa, vất vả ở nơi xa lạ, không nên không xét kĩ.” Sớ vừa tấu lên thì quan Tri châu Khâm là Lâm Hi Nguyên lại ra sức bày kể việc có thể đánh lấy được Đăng Dung. Bộ Binh không quyết được, lại xin triều đình bàn việc. Kịp lúc bàn xong, vua không vui, nói: “Trẫm nghe nói các quan khanh bàn luận đều bảo là không nên dấy binh. Các ngươi làm việc giúp nước mà dùng dằng không chủ quyết được, lại đều giao cho triều đình, đã không đồng lòng mưu việc nước thì thôi vậy. Nay trao cho Loan-Bá Ôn dùng việc.”

十八年册立皇太子,當頒詔安南。特� �黃綰為禮部尚書,學士張治副之,往� ��其國。命甫下,方瀛遣使上表降,並 籍其土地、戶口,聽天朝處分,凡為� �五十有三,州四十有九,縣一百七十� ��六。帝納之,下禮、兵二部協議。至 七月,綰猶未行,以忤旨落職,遂停� �命。初,征討之議發自夏言,帝旣責� ��,因發怒曰:「安南事,本一人倡, 衆皆隨之。乃訕上聽言計,共作慢詞� �此國應棄應討,宜有定議,兵部卽集� ��以聞。」於是瓚及廷臣惶懼,請如前 詔,仍遣鸞、伯溫南征。如登庸父子� �手歸命,無異心,則待以不死,從之� ��登庸聞,大喜。
Năm (Gia Tĩnh) thứ mười tám, sách lập Hoàng thái tử, sắp ban chiếu cho An Nam biết, bèn lấy Hoàng Oản làm Lễ bộ thượng thư, lấy Học sĩ Trương Trị làm phó đi sứ đến nước ấy. Lệnh vừa xuống, Phương Doanh bèn sai sứ dâng biểu xin hàng, cùng dâng bản đồ đất đai, sổ hộ khẩu để đợi triều đình phân xử, cả thảy có năm mươi ba phủ, bốn mươi chín châu, một trăm bảy mươi sáu huyện. Vua nhận lấy, hạ lệnh hai bộ Lễ-Binh cùng bàn việc. Đến tháng bảy, Oản vẫn chưa đi, vì trái ý vua mà bị cách chức, bèn dừng đi sứ. Trước đây, lời bàn nên đi đánh dẹp xuất từ Hạ Ngôn, đến đây vua đã trách tội Oản, nhân đó cáu giận nói: “Việc đánh An Nam vốn là từ một người mà mọi người đều hùa theo. Lại khuyên ta nghe lời, cùng nói lời a dua. Việc nên đánh hay nên bỏ nước ấy, bộ Binh phải hội nghị tấu lên.” Do đó bọn (Trương) Toản và bầy tôi lo sợ, xin làm như chiếu lệnh lúc trước, vẫn sai bọn Loan-Bá Ôn xuống đánh phía nam, nếu cha con Đăng Dung bó tay theo hàng không có lòng khác thì tha cho không giết. Vua nghe theo. Đăng Dung nghe tin, cả mừng.

十九年,伯溫等抵廣西,傳檄諭以納� �宥罪意。時方瀛已卒,登庸卽遣使請� ��。十一月率從子文明及部目四十二人 入鎮南關,囚首徒跣,匍匐叩頭壇上� �進降表,伯溫稱詔赦之。復詣軍門匍� ��再拜,上土地軍民籍,請奉正朔,永 為籓臣。伯溫等宣示威德,令歸國俟� �。疏聞,帝大喜,命削安南國為安南� ��統使司,授登庸都統使,秩從二品, 銀印。舊所僭擬制度悉除去,改其十� �道為十三宣撫司,各設宣撫、同知、� ��使、僉事,聽都統黜陟。廣西歲給大 統曆,仍三歲一貢以為常。更令覈黎� �眞偽,果黎氏後,割所據四府奉其祀� ��,否則已之。制下,登庸悚惕受命。
Năm (Gia Tĩnh) thứ mười chín, bọn Bá Ôn đến Quảng Tây, truyền hịch dụ nếu theo về thì tha tội. Bấy giờ Phương Doanh đã chết. Đăng Dung liền sai sứ xin hàng. Tháng mười một, dẫn bốn mươi hai người bọn con trong họ là Văn Minh và bộ chúng vào ải Trấn Nam, buộc đầu đi chân trần, bò quỳ rập đầu ở trên đàn, dâng biểu hàng. Bá Ôn đọc thư tha tội, (Đăng Dung) lại bò quỳ đến cửa quân vái lạy, dâng bản đồ đất đai sổ quân dân, xin vâng chính sóc, mãi làm phiên thần. Bọn Bá Ôn nêu rõ oai đức, sai về nước đợi lệnh. Gửi sớ về, vua cả mừng, hạ lệnh lấy nước An Nam làm An Nam đô thống sứ ti, trao chức Đô thống sứ cho Đăng Dung, đeo hàm nhị phẩm, ấn bạc. Các chế độ soán nghịch cũ đều bãi bỏ, đổi mười ba đạo thành mười ba tuyên phủ ti, đều đặt chức Tuần phủ, Đồng tri, Phó sứ, Thiêm sự, nghe theo lệnh Đô thống sứ sắp đặt. Tỉnh Quảng Tây hằng năm cấp cho lịch Đại Thống, vẫn ba năm cống một lần làm lệ thường. Lại sai xét việc thật giả của Lê Ninh, nếu đúng là dòng dõi của họ Lê thì cắt cho bốn phủ mà Ninh chiếm giữ để lo việc cúng tế, nếu không đúng thì thôi. Lệnh xuống, Đăng Dung sợ hãi nghe theo.

二十二年,登庸卒,方瀛子福海嗣,� �宣撫同知阮典敬等來朝。二十五年,� ��海卒,子宏瀷嗣。初,登庸以石室人 阮敬為義子,封西寧侯。敬有女嫁方� �次子敬典,因與方瀛妻武氏通,得專� ��柄。宏瀷立,方五歲,敬益專恣用事 。登庸次子正中及文明避之都齋,其� �輩阮如桂、范子儀等亦避居田里。敬� ��兵逼都齋,正中、如桂、子儀等禦之 ,不勝。正中、文明率家屬奔欽州,� �儀收殘卒遁海東。敬詭稱宏瀷歿,以� ��立正中為詞,犯欽州,為參將兪大猷 所敗,誅死。宏瀷初立時,遣使黎光� �來貢,至南寧,守臣以聞。禮官以其� ��內亂,名分未定,止來使勿進,而令 守臣覈所當立者。至三十年事白,命� �宏瀷都統使,赴關領牒。會部目黎伯� ��與黎寧臣鄭檢合兵來攻,宏瀷奔海陽 ,不克赴。光賁等留南寧且十五年,� �偕來使人物故大半。宏瀷祈守臣代請� ��詔許入京,其都統告身,仍俟宏瀷赴 關則給。四十三年,宏瀷卒,子茂洽� �。萬曆元年授都統使。三年遣使謝恩� ��賀卽位,進方物,又補累年所缺之貢 。
Năm (Gia Tĩnh) thứ hai mươi hai, Đăng Dung chết, con của Phương Doanh là Phúc Hải nối ngôi, sai Tuyên phủ đồng tri là bọn Nguyễn Điển Kính đến chầu. Năm (Gia Tĩnh) thứ hai mươi lăm, Phúc Hải chết, con là Hoành Dực thay. Trước đây, Đăng Dung lấy người huyện Thạch Thất là Nguyễn Kính làm con nuôi, phong làm Tây Ninh Hầu. Kính có con gái gả cho con thứ của Phương Doanh là Kính Điển, (Kính) nhân dịp thông dâm với người vợ họ Võ của Phương Doanh, nắm được binh quyền. Kịp lúc Hoành Dực lập mới năm tuổi, Kính càng chuyên quyền làm việc. Con thứ của Đăng Dung là Trung Chính và Văn Minh tránh đến phủ Đô Trai, bộ chúng là bọn Nguyễn Như Quế-Phạm Tử Nghi cũng tránh về ở thôn làng. Kính phát binh đến phủ Đô Trai, bọn Trung Chính-Văn Minh-Tử Nghi chống lại, không thắng, bọn Văn Minh dẫn gia thuộc chạy sang Khâm châu, còn Tử Nghi thu tàn quân trốn ở đạo Hải Đông. Kính nói dối là Hoành Dực đã chết để lừa đón Trung Chính về lập ngôi, phạm vào Khâm châu, bị Tham quân là Du Đại Du đánh bại, giết chết. Vào lúc Hoành Dực mới lập, sai sứ là bọn Lê Quang Bí sang cống, đến phủ Nam Ninh thì quan lại trấn thủ phủ ấy báo về. Quan bộ Lễ cho rằng nước ấy nội loạn, danh phận chưa định, nên dừng việc đi sứ mà sai quan lại trấn thú ở biên giới xét kĩ kẻ đáng được lập ngôi. Đến năm (Gia Tĩnh) thứ ba mươi thì việc đã rõ, sai phong chức Đô thống sứ cho Hoành Dực, sai đến cửa ải nhận lệnh. Kịp lúc đầu mục là Lê Bá Li và bầy tôi của Lê Ninh là Trịnh Kiểm hợp binh đến đánh, Hoành Dực trốn đến phủ Hải Dương, không thắng được lại về. Bấy giờ bọn Quang Bí ở lại Nam Ninh gần mười lăm ngày, bọn cùng đi sứ đợt ấy chết mất quá nửa. Hoành Dực cầu bầy tôi giữ ở biên giới xin lập, vua hạ chiếu cho vào kinh, còn ấn Đô thống sứ thì đợi Hoành Dực đến cửa ải thì mới cấp cho. Năm (Gia Tĩnh) thứ bốn mươi ba, Hoành Dực chết, con là Mậu Hợp lập. Năm Vạn Lịch thứ nhất (năm 1573), trao cho chức Đô thống sứ. Năm (Vạn Lịch) thứ ba, sai sứ sang tạ ơn, chúc mừng vua lên ngôi, dâng phương vật, lại cống mà các năm trước còn thiếu.

時莫氏漸衰,黎氏復興,互相搆兵,� �國益多故。始黎寧之據清華也,仍僭� ��號,以嘉靖九年改元元和。居四年, 為登庸所攻,竄占城界。國人立其弟� �,改元光照。十五年廉知寧所在,迎� ��清華,後遷於漆馬江。寧卒,其臣鄭 檢立寧子寵。寵卒,無子,國人共立� �暉四世孫維邦。維邦卒,檢子松立其� ��維潭,世居清華,自為一國。
Bấy giờ họ Mạc dần suy, họ Lê lại nổi, dấy binh đánh nhau, nước ấy càng nhiều việc. Lúc trước vào lúc Lê Ninh chiếm lấy phủ Thanh Hoa vẫn tiếm xưng hiệu đế, vào năm Gia Tĩnh thứ chín thì đổi niên hiệu là Nguyên Hòa, được bốn năm thì bị Đăng Dung đánh, trốn sang nước Chiêm Thành. Người trong nước lập em của Ninh là Hiến, đổi niên hiệu là Quang Chiếu. Đến năm (Gia Tĩnh) thứ mười lăm mới biết Ninh còn sống, đón về Thanh Hoa, sau dời đến ở bên sông Tất Mã. Ninh chết, bầy tôi là bọn Trịnh Kiểm lập con của Ninh là Sủng. Sủng chết, không có con, người trong nước lập cháu đời thứ tư của Lê Huy là Duy Bang. Duy Bang chết, con của Kiểm là Tùng lập con của Duy Bang là Duy Đàm, nối đời ở Thanh Hoa, tự làm một nước.

萬曆十九年,維潭漸強,舉兵攻茂洽� �茂洽敗奔嘉林縣。明年冬,松誘土人� ��應,襲殺茂洽,奪其都統使印,親黨 多遇害。有莫敦讓者,奔防城告難,� �督陳蕖以聞。松復擒敦讓,勢益張。� ��洽子敬恭與宗人履遜等奔廣西思陵州 ,莫履機奔欽州。獨莫敬邦有衆十餘� �,起京北道,擊走黎黨范拔萃、范百� ��諸軍,敦讓得復歸。衆乃推敬邦署都 統,諸流寓思陵、欽州者悉還。黎兵� �南策州,敬邦被殺,莫氏勢益衰。敬� ��、敬用屯諒山高平,敬璋屯東海新安 ,懼黎兵追索,竄至龍州、憑祥界,� �土官列狀告當事。維潭亦叩關求通貢� ��識以國王金印。
Năm Vạn Lịch thứ mười chín, Duy Đàm dần mạnh, dấy binh đánh Mậu Hợp, Mậu Hợp thua chạy đến huyện Gia Lâm. Năm sau, mùa đông, Tùng dụ thổ nhân làm nội ứng, đoạt lấy ấn Đô thống sứ của Mậu Hợp, nhiều thân đảng bị hại. Bấy giờ có Mạc Đôn Nhượng trốn đến huyện Phòng Thành cáo nạn. Tổng đốc (Lưỡng Quảng) là Trần Cừ báo lên. Tùng lại bắt được Đôn Nhượng, thế càng lớn. Con của Mậu Hợp là Kính Cung cùng tông tộc là bọn Mạc Lí Tốn trốn đến châu Tư Lăng tỉnh Quảng Tây, còn Mạc Lí Cơ trốn đến Khâm châu. Chỉ còn Mạc Kính Bang có hơn chục vạn quân nổi dậy ở đạo Kinh Bắc đánh đuổi các quân bộ chúng của họ Lê là bọn Phạm Bạt Tụy-Phạm Bách Lộc. Đôn Nhượng lại được về. Bộ chúng bèn tôn Kính Bang làm Đô thống sứ, những kẻ trốn ở các châu Tư Lăng-Khâm châu đều được về. Họ Lê lại phát binh đánh châu Nam Sách, do đó Kinh Bang bị giết, thế họ Mạc càng suy. Có bọn Kính Cung-Kính Dụng đóng giữ ở các phủ Lạng Sơn-Cao Bằng, bọn Kính Chương đóng giữ phủ Tân An đạo Hải Đông, sợ họ Lê ép bắt, bèn chạy đến vùng Long châu-phủ Bằng Tường, vua sai thổ quan kể tình trạng những kẻ đó. Duy Đàm cũng gõ cửa ải xin sang cống, ban cho ấn vàng Quốc vương.

二十一年,廣西巡撫陳大科等上言:� �蠻邦易姓如弈棋,不當以彼之叛服為� ��逆,止當以彼之叛我服我為順逆。今 維潭雖圖恢復,而茂洽固天朝外臣也� �安得不請命而撊然戮之。竊謂黎氏擅� ��之罪,不可不問。莫氏孑遺之緒,亦 不可不存。倘如先朝故事,聽黎氏納� �,而仍存莫氏,比諸漆馬江,亦不翦� ��祀,於計為便。」廷議如其言。明年 ,大科方遣官往察,敬用卽遣使叩軍� �告難,且乞兵。明年秋,維潭亦遣使� ��罪,求款。時大科已為兩廣總督,與 廣西巡撫戴耀並以屬左江副使楊寅秋� �寅秋竊計曰:「不拒黎,亦不棄莫,� ��策定矣。」兩遣官往問,以敬恭等願 居高平來告,而維潭求款之使亦數至� �寅秋乃與之期,具報督撫。會敬璋率� ��赴永安,為黎氏兵擊敗,海東、新安 地盡失,於是款議益決。
Năm (Vạn Lịch) thứ hai mươi mốt, bọn Tuần phủ Quảng Tây là Trần Đại Khoa dâng tấu nói: “Nước Man đổi họ như thay cờ, không đáng xét kẻ phản phục của nước làm nghịch thuận, chỉ nên xét kẻ nào phản ta phục ta làm nghịch thuận. Nay Duy Đàm dẫu mưu đồ khôi phục nhưng Mậu Hợp vốn là phiên thần của triều đình, há lại không được vâng mệnh mà điềm nhiền bỏ đi được. Trộm xét tội họ Lê tự ý dấy binh, không thể không hỏi tới. Con cháu nối dòng họ Mạc cũng không thể không giữ lại. Noi theo việc cũ của triều đình, cho họ Lê theo phục mà vẫn giữ gìn họ Mạc, so với bọn ở sông Tất Mã cũng không bị cắt đứt việc cúng tế. Kế này là hơn cả.” Triều đình bàn nghe theo lời ấy. Năm sau, Đại Khoa liền sai sứ đến xét hỏi, Kính Dụng bèn sai sứ đến cửa quân cáo nạn, lại xin binh. Năm sau, mùa thu, Duy Đàm cũng sai sứ sang tạ tội, cầu phong. Bấy giờ Đại Khoa đã làm Tổng đốc Lưỡng Quảng, cùng với Tuần phủ Quảng Tây là Đái Diệu trao việc cho Tả giang phó sứ là Dương Dần Thu, Dần Thu bàn kế rằng: “Không chống họ Lê cũng không bỏ họ Mạc, kế ta đã định rồi.” Sai sứ đến hai nơi xét hỏi, đem việc bọn Kính Cung xin ở lại phủ Cao Bình đến báo, còn Duy Đàm cũng nhiều lần sai sứ đến cầu phong. Dần Thu bèn hẹn với họ (Lê-Mạc), cùng báo cho quan Đốc-Phủ. Gặp lúc Kính Chương dẫn bộ chúng đến huyện Vĩnh An, bị họ Lê đánh bại, các phủ Tân An-Hải Đông đều mất, do đó bàn việc cầu phong càng quyết nhanh.

時維潭圖恢復名,不欲以登庸自處,� �束身入關意。寅秋復遣官諭之,其使� ��來報如約,至期忽言於關吏曰:「士 卒饑病,款儀未備。且莫氏吾讎也,� �之高平,未敢聞命。」遂中宵遁去。� ��科等疏聞,謂其臣鄭松專權所致。維 潭復遣使叩關,白己非遁。大科等再� �官諭之,維潭聽命。
Bấy giờ Duy Đàm mượn tiếng khôi phục, không muốn theo việc Đăng Dung tự xử, không có ý trói mình vào ải. Dần Thu lại sai sứ sang dụ Duy Đàm, sứ giả của Duy Đàm đến báo làm như ước hẹn, đến hẹn bỗng lại nói với quan lại giữ ải rằng: “Quân lính đói mệt, đồ cống chưa sắm đủ. Vả lại họ Mạc là kẻ thù của ta còn chặn ở phủ Cao Bằng, cho nên chưa dám nghe lệnh.” Rút cuộc bỏ đi giữa chừng. Bọn Đại Khoa dâng sớ về, bảo là bị bầy tôi nước ấy là bọn Trịnh Tùng chuyên quyền gây nên. Duy Đàm lại sai sứ đến cửa ải, nói rõ mình không bỏ trốn. Bọn Đại Khoa lại sai sứ sang dụ, Duy Đàm bèn vâng mệnh.

二十五年遣使請期,寅秋示以四月。� �期,維潭至關外,譯者詰以六事。首� ��殺茂洽,曰:「復讎急,不遑請命。 」次維潭宗派,曰:「世孫也,祖暉� �天朝曾錫命。」次鄭松,曰:「此黎� ��世臣,非亂黎氏也。」然則何宵遁, 曰:「以儀物之不戒,非遁也。」何� �用王章,曰:「權倣為之,立銷矣。� ��惟割高平居莫氏,猶相持不絕。復諭 之曰:「均貢臣也,黎昔可棲漆馬江� �莫獨不可棲高平乎?」乃聽命。授以� ��關儀節,俾習之。維潭率其下入關謁 御幄,一如登庸舊儀。退謁寅秋,請� �賓主禮,不從,四拜成禮而退。安南� ��定。詔授維潭都統使,頒曆奉貢。一 如莫氏故事。先是,黎利及登庸進代� �金人,皆囚首面縛,維潭以恢復名正� ��獨立而肅容。當事嫌其倨,令改制, 乃為俯伏狀,鐫其背曰:「安南黎氏� �孫,臣黎維潭不得蒲伏天門,恭進代� ��金人,悔罪乞恩。」自是,安南復為 黎氏有,而莫氏但保高平一郡。
Năm (Vạn Lịch) thứ mười lăm, (Duy Đàm) sai sứ sang hẹn, Dần Thu hẹn đến tháng tư. Đến hẹn, Duy Đàm đến ngoài cửa ải, quan phiên dịch hỏi sáu việc. Đầu là việc tự ý giết Mậu Hợp, đáp rằng: “Trả thù gấp nên không kịp xin lệnh.” Thứ đến thân thế của Duy Đàm, đáp rằng: “Là thế tôn, tổ là Huy, triều đình từng phong tước cho.” Thứ đến Trịnh Tùng, đáp rằng: “Đấy là bầy tôi nhiều đời của họ Lê, không làm loạn họ Lê.” Thứ đến sao lại bỏ trốn, đáp rằng: “Vì lễ vật còn chưa đủ, không phải trốn.” Thứ đến sao lại dùng ấn vương, đáp rằng: “Vì ham quyền nên đúc ra, xin hủy ngay.” Chỉ còn việc cắt đất phủ Cao Bằng cho họ Mạc là vẫn chống nhau không dứt, lại dụ Duy Đàm rằng: “Đều là bầy tôi vâng chức cống. Họ Lê khi xưa náu được ở sông Tất Mã, nay họ Mạc há lại không náu được ở phủ Cao Bằng sao?” Bèn vâng lệnh, trao cho đồ nghi trượng vào ải, sai giữ lấy nó. Duy Đàm dẫn bộ chúng đến ải vào trướng phủ, đều như lệ cũ thời Đăng Dung. Lại gặp Dần Thu, xin dùng lễ chủ-khách, nhưng (Dần Thu) không nghe, lấy lễ bốn lần lạy rồi về. An Nam lại yên. Vua hạ chiếu trao chức Đô thống sứ cho Duy Đàm, ban lịch hẹn cống đều như lệ cũ thời họ Mạc. Trước đây, từ thời Lê Lợi đến thời Mạc Đăng Dung có lệ dâng tượng vàng thay người, đều buộc đầu trói mặt, Duy Đàm đã khôi phục lại danh chính, dùng tượng đứng vững mà thảnh thơi. Quan trấn thủ ghét chuyện ấy, sai đổi lại, vẫn để dáng cúi chầu, khắc trên lưng tượng ấy rằng: “Thế tôn họ Lê nước An Nam thần là Lê Duy Đàm không được bò cúi ở cửa trời, cung tiến người vàng thay người, tạ lỗi xin ân.” Từ đó, họ Lê lại có nước An Nam, còn họ Mạc chỉ giữ được một quận Cao Bằng.

二十七年,維潭卒,子維新嗣,鄭松� �其柄。會叛酋潘彥搆亂,維新與松移� ��清化。三十四年遣使入貢,命授都統 使。時莫氏宗黨多竄處海隅,往往僭� �公侯伯名號,侵軼邊境,維新亦不能� ��。守臣檄問,數發兵夾剿,雖應時破 滅,而邊方頗受其害。維新卒,子維� �嗣。天啟四年,發兵擊莫敬寬,克之� ��殺其長子,掠其妻妾及少子以歸。敬 寬與次子逃入山中,復回高平,勢益� �。然迄明之世,二姓分據,終不能歸� ��云。
Năm (Vạn Lịch) thứ hai mươi bảy, Duy Đàm chết, con là Duy Tân lập, Trịnh Tùng nắm lấy quyền. Gặp lúc thổ tù là Phan Ngạn làm loạn, Duy Tân cùng Trịnh Tùng dời về giữ phủ Thanh Hóa. Năm (Vạn Lịch) thứ ba mươi tư, sai sứ vào cống, trao cho chức Đô thống sứ. Bấy giờ nhiều tông tộc họ Mạc ẩn náu ở bờ biển, nơi nơi đều tiếm xưng danh hiệu công-hầu-bá, xâm lấn biên cảnh, Duy Tân cũng không ngăn được. Quan trấn thủ biên giới sai sứ sang xét hỏi, nhiều lần phát binh dẹp trừ, dẫu có lúc phá diệt nhưng biên cảnh thường bị gây hại. Duy Tân chết, con là Duy Kì lập. Năm Thiên Khải thứ tư (năm 1624), phát binh đánh Mạc Kính Khoan, chiếm lấy được, giết con cả của hắn, bắt thê thiếp và con nhỏ của hắn đem về. Kính Khoan cùng con thứ trốn vào trong núi rồi về lấy lại Cao Bằng, thế càng yếu. Nhưng rút cuộc vào thời nhà Minh, hai họ (Lê-Mạc) chia giữ, rút cuộc không thể theo về một mối.