Trang chủ Kiến Thức Thuế thân qua báo chí thời Pháp thuộc.

Thuế thân qua báo chí thời Pháp thuộc.

Bài viết trên tờ “Đăng cổ Tùng báo” ra ngày 24 tháng 10 năm 1907, nhà in Schneide ở phố Hàng Bông, Hà Nội. Đây là tờ báo nửa quốc ngữ nửa Hán văn, vừa đưa tin vừa nghị luận, có sự tham gia của 2 học giả nổi tiếng đương thời là Nguyễn Văn Vĩnh và Đào Nguyên Phổ. Mỗi số báo có 16 trang, khổ 27,5 x 20cm, ra ngày thứ Năm hàng tuần.

SỬA THUẾ THÂN VÀ THUẾ SƯU

Chiểu theo lời Nghị định ngày mồng 2 tháng 6 năm 1897, những người phải nạp thuế thân và thuế sưu chia làm 2 hạng:

Một là hạng nội-tịch nạp 3 đồng, hai là hạng ngoại-tịch nạp 5 hào. Ấy là nhân sự thuế mà chia ra hai hạng như vậy, chứ mà đổi số dân đinh đóng góp không đúng thật phần, vì là trong bạ tay phân làm hai hạng, nhiều khi bổ thuế trong làng cũng không cứ bạ. Trong nhiều làng, những người nào mà không nhờ Nhà-nước hay là nhờ tục làng tha thuế cho, thì đều chia đồng phần cả.

Nguyên Nhà-nước lập phép ấy có ý muốn cho người nghèo có phần nhờ, nhưng mà như trong làng không theo phép ấy cho nên kẻ nghèo đã không nhờ được gì, mà lại phải chịu phần nặng hơn. Các ông hương chức bổ thuế thường thường không được công bằng, vậy thì sự công bằng về sự thuế chỉ có kỳ danh, không có kỳ thật, vì thế dân không biets phần mình phải nạp cho Nhà-nước là bao nhiêu, cứ phải theo các ông hương chức định bao nhiêu thì định.

Bây giờ nghĩ hợp hai hạng dân làm một, mà thuế liệu khoản chung bình cho nạp một hạng thuế thì tưởng hay hơn. Như vậy thì trong làng không có lẽ nào mà bổ thuế khác nhau, còn dân thì biết rõ phần mình phải nộp bao nhiêu không phải lo người phần thuế sách nhiễu.

Cách sửa thuế thân lại như vậy thì sẽ được gọn gàng mà lại được lợi ích về sự khác nữa.

Như nhập hai hạng lại làm một thì hợp với tình thế người An-nam bây giờ. Thuở xưa, Nhà-nước chỉ biết dân nội-tịch mà thôi, nghĩa là ai có tên trong bạ mới phải nạp thuế, mới phải đi lính, mới làm việc làng việc quan, mới đi thi được. Bây giờ đã lập thẻ bài thuế thân và có các lẽ khác nữa, thì cái danh hiệu của người An-nam ngày càng rõ ra, thì cái tên nội-tịch, ngoại-tịch không còn có lẽ nào mà để nữa.

Còn lại, sự cai trị, sự hình chánh và sự mộ binh đã sửa sang nhiều, ít phải sai nhầm như trước, thì căn cước của dân nên biết rõ cho nên dân người nào cũng phải biên tên thiệt của mình vào bạ, ấy là không phải ích lợi cho Nhà-nước mà thôi, mà dân cũng được ích lợi riêng nữa vì đặng có công việc gì thì cứ lấy ten thiệt mình mà làm.

Vả chăng cái đinh bạ trong các làng không rõ ràng chắc chắn gì cả, nên khi san bổ thẻ bài, nội-tịch ngoại-tịch thường hay có sự gian dối.

Nên nghĩ nhập hai hạng dân lại làm một để mà sửa cái đinh bạ trong làng lại, cho mỗi người dân đều hiện tên thiệt vào đinh, như thế thì dân ngoại-tịch được danh hiệu rõ ràng, khi có việc gì thì cứ tên thiệt của mình mà làm, khỏi phải lo chạy nhờ cậy ai như trước mới có tên bộ.

Còn trong làng đã có cái bạ rõ ràng thì bổ thuế được công bằng. Như trong năm mà số dân làng nào có ít đi, mà chịu thuế nặng quá thì Nhà-nước cũng biết mà giảm cho. Chi như tính theo cách chia dân đinh như bây giờ, thì có làng nặng mà cũng có làng nhẹ, không đều.

TÍNH THUẾ THÂN Ở BẮC KỲ

Dân nội tịch ở Bắc-Kỳ là 478.203 người, mỗi người 3 đồng, cộng lại là 1.334.609 đồng; dân ngoại tịch 654.828 người, mỗi người 5 hào, cộng lại là 327.414 đồng. Hợp cộng nội ngoại tịch 1.133.031 người; hợp cộng hai hạng thuế là 1.662.623 đồng.

Bây giờ lấy số thuế 1.662.623 chia cho 1.133.031 người thì mỗi người chỉ phải đóng có 1 đồng 4 hào 7 su (1$47)

Trang chữ quốc ngữ

Nhưng mà cứ lấy cái số ấy bắt mọi người phải chịu thjif những người ngoại-tịch phải chịu nặng quá. Vậy đánh thuế thân đều nhau không kể giàu nghèo thì nên bớt đi mà đánh thêm vào thuế điền thì có lẽ công bằng hơn.

Thật phép đánh thuế thì trước phải lượng lực người phải chịu thuế, tức là tùy cái của chinh của người phải chịu thuế mà thu. Nay xét trong xứ Bắc-Kỳ thì dân chỉ nhờ đất ruộng mà được nhiều hoa lợi, mà thuế thì dân nhờ lấy ở hoa lợi mà nộp, nên năm nào cũng dợi gặt hái xong mới thâu thuế.

xét kỹ xem thì thuế chinh dân nộp có mười phần thì 7 phần là tiền lấy ở hoa lợi mà ra. Nhưng mà sự chia thếu không được công bằng, nên nhiều người An-nam trả thuế thân cũng bằng phần thuế điền, có khi lại hơn phần thuế điền của nó. Vậy thì đáng bớt thuế thân mà tăng thuế điền vì là điền thổ có hoa lợi rõ ràng để biết hơn là sức người.

Nay nghĩ định nghĩa thuế thân mỗi người 6 hào, như vậy thì vừa sức người.

Công sưu – đã sửa thuế thân thì phải sửa thuế công sưu.

Nguyên định dân nội-tịch thì phải đi làm xâu một năm mỗi người 10 ngày. Nay đã nghĩ nhập hai hạng nội ngoại tịch làm một, mà cứ bắt mỗi người đi 10 ngày thì nặng cho dân. Nên phải giảm số công sưu cho cân phần.

Kể số dân nội-tịch Toàn kỳ là 478.203 người, mỗi người 10 ngày cồn sưu, cộng lại là 4.782.030 ngày. Lấy số ấy mà chia cho số nội ngoại tịch 1.133.031 người thì được 4 ngày mà 3 phần ngày, nghĩa là hơn 4 ngày. Vậy thì gia vào một thi mà định mỗi người 5 ngày cho được nhất luật.

Định ra như thế, thì người nào cũng phải đi làm sưu, mà đi ít ngày hơn trước, thì hay hơn phép cũ. Cứ theo phép cũ thì dân nội-tịch mới phải đi xâu, nghĩa là hạng dân khá mới đi xâu; nhưng mà hạng dân nghèo đều phải bị cả. Vả chăng sự phải bất công sưu thường có nhiễu tệ, nay đã sửa sự sưu thì người nào cũng cho chuộc sưu cả, còn sự đi bắt phu thì bỏ ngay đi, khi nào có cán sự gì phải bắt dân thì cứ thuê mà trả tiền, sự ấy dân chắc bằng lòng. Nay nghĩ mỗi người dân phải chuộc sưu mỗi ngày 2 hào, 5 ngày thì thành 4 đồng, cộng với tiền thuế thân thì mỗi người phải chịu nạp một đồng sáu hào (1$60).

Ấy là về việc quan, còn như việc làng, nguyên định mỗi người phải làm cho làng 10 ngày, nhưng mà nhiều làng không tuân lệ ấy. Vậy thì sự làm sưu trong làng thì để cho dân thuận định với nhau, Nhà-nước không dự vào đó.

Trang bằng Hán tự

Nay lại nghĩ lập một thứ thẻ bài để cho những người nghèo cực lắm, không thể nào mà trả thuế thân và thuế sưu được. Hạng ấy gọi là hạng cùng đinh. Ai có xin cái thẻ ấy mà làng dành cho thì mới cho. Ấy là các lẽ quan trọng trong sự thuế thân và thuế sưu. Xin các ông Hội-viên phải xét đáng làm sao thì nói lại cho Nhà-nước biết:

  • Một là bỏ hai hạng nội-tịch ngoại-tịch mà nhập làm một hạng, trả một hạng thuế, và đều phải đi sưu.
  • Hai là giảm thuế thân mỗi người còn nạp 6 hào, còn thiếu bao nhiêu thì gia vào thuế điền thổ.
  • Ba là bỏ sự đi làm sưu, nhưng mà người dân nào cũng phải chuộc mỗi ngày 2 hào, 5 ngày là một đồng, cộng với thuế thân thì mỗi người 1 đồng 6 hào (1$60). Khi nào nhà nước thuế dân làm việc gì thì tùy lòng dân ưng mộ, nhưng mà đáng trả mỗi công là bao nhiêu. Khi nào ngộ việc khẩn cấp như là vỡ đê hay giữ đê, thì Nhà-nước còn được phép bắt dân phải đi phu, nhưng mà trả tiền chiếu theo giá tiền nhà nước thuế dân ưng mộ.
  • Năm là định làm một thứ thẻ bài cho hạng cùng đinh.
  • Sáu là các ông Hội-viên nghĩ có nên lập một hạng thẻ bài cho những người ngụ cư. Vì là ở ngụ thì làng ngụ không nhận, không giao thẻ bài cho, tựu trung nhiều người bỏ làng chánh quan không nạp thuế, nên nhiều người phải bị bắt thì không có cách gì làm chứng cớ để làm chỉ cho rõ mình là căn cước ở đâu, mà lại lậu thuế Nhà-nước.

Vì thế tưởng nên lập một hạng thẻ bài riêng cho các người ngụ cư, mỗi người phải nạp 6 hào.