Tết Nguyên Đán là một trong những tục lệ truyền thống lâu đời nhất của dân tộc Việt Nam. Tương truyền nó có từ thời Hùng vương qua sự tích Bánh Chưng Bánh Dày. Cũng như nhiều dân tộc làm nông nghiệp theo mùa vụ cố định trên thế giới, người Việt thưở dựng nước ăn tết vào thời điểm sau thu hoạch vụ mùa năm cũ và chuẩn bị bắt đầu vụ mùa mới. Ý nghĩa của Tết ban đầu chính là chào đón một chu kỳ nông nghiệp mới, với những niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng. Từ đó mà dần dần phát triển thêm nhiều tục lệ. Tết xưa rất trọng việc lễ nghi và thời cúng, là dịp để mọi người ôn lại truyền thống, thể hiện sự gắn kết gia đình và cộng đồng. Sau đây là đoạn miêu tả Tết Nguyên Đán vào thời Lý – Trần, trích từ sách An Nam Chí Lược của tác giả Lê Tắc sống vào thời nhà Trần :
“Thường năm, trước lễ Tết hai ngày, vua đi xe ngự dụng, các quan tuỳ tùng đều mặc triều phục hầu đạo tiền, tế điện Đế Thích. Ngày 30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan Củng, các bề tôi đều làm lễ. Lễ rồi, xem các con hát múa trăm lối. Tối lại qua cung Động Nhân, bái yết Tiên Vương. Đêm ấy đoàn thầy tu vào nội làm lễ Khu Na ( nghĩa là đuổi tà ma quỉ mị ). Dân gian thì mở cửa đốt pháo tre, cổ bàn trà rượu cúng tổ. Con trai con gái nhà nghèo, không có người mai dong để làm hôn lễ thì tự mình phối hợp với nhau.
Ngày Nguyên Đán, vào khoảng canh năm, vua ngồi trên điện Vĩnh Thọ, các tôn tử ( con cháu nhà vua ), các quan cận thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường Xuân, vọng bái các lăng tổ. Buổi sáng sớm, vua ngồi trên điện Thiên An, các phi tần sắp lớp ngồi, các quan trong nội đứng lộn xộn trước điện đánh thổi các bài ca nhạc trước đại đình. Con cháu nhà vua và bề tôi sắp hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong, các con cháu lên điện chầu và dự yến. Các quan nội thần ngồi tiểu điện phía tây, các quan ngoại thần ngồi hai bên tả hữu vua, ăn tiệc, đến trưa lần lượt đi ra. Các thợ khéo làm một cái đài Chúng Tiên hai tầng ở trước điện, một lúc thì cái đài ấy làm xong, vàng ngọc sáng chói. Vua ngồi ăn trên đài ấy, các quan làm lễ, trước sau chín lạy, và chín tuần rượu rồi giải tán.
Ngày mồng hai Tết, các quan đều làm lễ riêng ở nhà.
Ngày mồng ba Tết, vua ngồi trên gác Đại Hưng, xem các con cháu và các quan nội cung đánh bóng, hễ bắt được mà không rơi xuống đất là thắng. Quả bóng lấy gấm mà làm, bằng nắm tay đứa bé, có tua đeo lòng thòng đến hai mươi sợi.
Mùng năm Tết, lễ khai hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ các chùa miếu và du ngoạn các vườn hoa.”
Tết ngày nay tuy đã đổi khác nhiều. Có nhiều giá trị cũ đã phai nhạt, nhiều cái mới thay thế, có tốt, có xấu. Tuy nhiên vẫn còn cái cốt lõi thiết thực nhất và ý nghĩa nhất, đó là sự xum vầy.